Người ta có thể tin vào những gì mà truyền thông trong nước đang nói về Hội thánh Đức Chúa Trời, tuy nhiên việc các phương tiện thông tin liên tục công kích một tôn giáo là một việc không hợp với đạo đức truyền thông cho lắm. Việc của truyền thông là đưa tin chứ không phải phán xét. Quan điểm 28
nguyện cho "đuốc tuệ thuyền từ" của quý ngài mãi sáng rực, soi đường cho chư ni mai hậu, để chúng con tiếp tục gánh vác trách nhiệm của một công dân, một tu sĩ và một người đệ tử, con gái của đức phật; nguyện ni lưu hậu bối luôn tiếp nối được nguồn năng lượng đạo hạnh, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ trong hành trình chuyển mê khai ngộ như quý ngài …
Sách Seneca: Những Bức Thư Đạo Đức - Chủ nghĩa Khắc kỷ trong đời sống ebook PDF-EPUB-AWZ3-PRC-MOBI MENU MENU Seneca - một trong ba trụ cột của Chủ nghĩa Khắc Kỷ, đã sử dụng một định dạng văn bản triết học do chính ông sáng tạo ra là các bức thư gần gũi, thân thiện
2.1.2. Từ nguyên "đạo đức" trong tiếng anh: 12: 2.1.3. Theo các triết gia Hy Lạp cổ đại: 12: 2.2. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức học của thánh Augustinô: 13: 2.2.1. Giới thiệu về sách kinh Thánh: 13: 2.2.2. Kinh Thánh là nguồn tư tưởng đạo đức của thánh Augustinô: 14
Triết Học Phật Giáo; Chư Phật cũng thế, chẳng phải Đức Chí Tôn tạo ra Thánh đạo, Đức Thế Tôn tự Ngài giác ngộ, tìm được rồi Ngài đem ra chỉ dạy rằng: đây là khổ, đây là nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường tu hành là nhân đưa đến nơi
Rupert Woodfin và Judy Groves cho rằng, mục đích này làm cho Đạo đức học của Aristotle trở thành một công trình về triết học luân lý chứ không phải một cuốn cẩm nang học làm người đơn thuần.[5] II. Một số vấn đề trong đạo đức học của Aristotle. 1. Mục đích của con
1vLeoP. Lượt xem 721 Tác giả bài viết Tiến sĩ LÊ VĂN TÙNG Trường Đại học Đồng Tháp NGUYỄN VĨNH PHONG Trường Đại học Đồng Tháp TÓM TẮT Từ cách tiếp cận khoa học phức hợp, Edgar Morin đã luận chứng nguyên nhân và hậu quả có thể đưa lại của những khủng hoảng về đạo đức, do sự bất lực của nhận thức trong việc nắm bắt tính phức hợp của thực tại. Đồng thời vạch ra sự cần thiết của việc xác lập một quan điểm mới về đạo đức – đạo đức học phức hợp, đạo đức của sự liên kết – một hệ thống quan điểm về những cơ sở và nguyên nhân của luân lý. Cách tiếp cận này có vai trò quan trọng trong việc nhận thức và giải quyết những vấn đề đạo đức mới, nảy sinh trong lý luận và thực tiễn thời đại ngày nay. Từ khóa Đạo đức học phức hợp, Phức hợp, Tự thân đạo đức, Tam vị nhất thể. xx x Hiện nay, toàn cầu hóa đã đưa lại điều kiện cho sự giao tiếp/đối thoại về văn hóa, sản sinh ra đời sống toàn cầu với các mối bận tâm chung được chia sẻ và cơ hội trình bày các khác biệt.*Chúng cũng mang đến những xáo trộn của đời sống đương đại, cạnh tranh kinh tế, giao tiếp đa văn hóa, sự tăng trưởng kiến thức, sự phổ biến của việc sử dụng công nghệ và dân chủ hóa đời sống xã hội.*Dưới góc độ đạo đức học, thời đại ngày nay đang nảy sinh những khủng hoảng về đạo đức, sự sản sinh và phổ biến của mô hình “tự kỷ – trung tâm”, tri thức bị chia tách theo những chuyên ngành chật hẹp và khép kín, sự mù lòa của trí tuệ không nhận thức được tính phức hợp của thực tại đang tác động làm ngày càng mờ nhạt những yếu tố vị tha, cái ác hoành hành. Do vậy, việc tái tạo lại đạo đức của con người từ các căn nguyên cơ bản qua tính phức hợp hay liên kết đạo đức là cần thiết để góp phần chống lại cái ác, khôi phục tình đoàn kết toàn cầu là một nhu cầu cấp bách. Với tinh thần đó, bài viết góp phần tìm hiểu một số nội dung cơ bản trong triết học đạo đức của Edgar Morin. 1. Edgar Morin sinh năm 1921 là nhà xã hội học, nhân học và triết học người Pháp. Sự nghiệp của Morin khá đồ sộ và đạt nhiều thành tựu. Morin được xem là một nhà tư tưởng hàng đầu của nước Pháp đương đại, “người cha đẻ của tư duy phức hợp”. Là một học giả quốc tế có uy tín, ông được tôn vinh là tiến sĩ danh dự tại hơn 20 trường đại học trên thế giới ở nhiều bộ môn khác nhau. Xuyên suốt các tác phẩm của ông là tính phức hợp và tư duy phức hợp. Trọng tâm lý luận của chúng là nỗ lực liên kết, đan dệt các khác biệt thành một “tấm thảm” chung, từ đó có thể gia tăng năng lực suy tư, lý giải và giải quyết cho những vấn đề cấp bách của thế giới đương đại. Theo Morin, phức hợp là sự liên kết, đan xen lại với nhau, tính phức hợp liên quan đến khối lượng khổng lồ những tương tác giữa các bộ phận cấu thành dị biệt, gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành “tấm dệt chung” không thể phân cách hay quy giản được. 2. Theo Morin, nguyên nhân sâu xa của những khủng hoảng về văn hóa và đạo đức hiện nay là sự phổ biến mang tính áp đảo của mô hình “tự kỷ – trung tâm” đối với yếu tố vị tha nơi con người cá nhân tự chủ hóa, dẫn tới các đứt gãy của các quan hệ xã hội và tình đoàn kết. Bên cạnh tính chất phát triển của xã hội còn có những mặt trái làm suy tàn những thuần phong truyền thống của các dân tộc, kèm theo đó là sự suy yếu của các mệnh lệnh tinh thần và những quy định của thiết chế xã hội, tính chất quan liêu hóa, tham nhũng, bất chấp luân lý ngày càng gia tăng đáng kể trong xã hội hiện đại. Cùng với đó là sự suy yếu của bộ ba mà Morin gọi là “tam vị nhất thể” cá nhân, xã hội, giống loài. Con người ngày càng thiếu hiểu biết và thiếu trách nhiệm khi những kiến thức đã bị cắt xén, chia vụn ra từng ngành riêng biệt. Mỗi ngành đều có những khái niệm, lý thuyết riêng được hình thành như các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học, vật lý học hay cả về chính trị, khoa học…, tất cả đều có nguy cơ đui mù về nhận thức, do không nắm bắt được tính phức hợp của thực tại. Sự ảnh hưởng của lối tư duy cổ điển, chuẩn thức đơn giản đã ảnh hưởng hàng mấy thế kỷ, kiến thức xuyên ngành, liên ngành cũng chẳng có sự liên kết với nhau thành một hệ thống hoàn chỉnh. 3. Bàn về cách tiếp cận đạo đức học phức hợp, Morin cho rằng, đạo đức học phức hợp là “một siêu quan điểm, bao hàm sự suy tư về những cơ sở và nguyên tắc của luân lý”, bao gồm những yếu tố tối cần thiết như “tư duy phức hợp và nhân học phức hợp” Edgar Morin, 2012, 6, là đạo đức của sự “liên kết chủ động”, nó như thân cây có ba cành nhánh gồm tự thân đạo đức, xã hội đạo đức và nhân học đạo đức. Đạo đức mang tính phức hợp bởi lẽ trong bản thân nó chứa đựng những đối hợp logic và sự bấp bênh về các mặt do những mâu thuẫn, trong đó có các mặt đối lập cùng tồn tại, bài trừ, đối kháng, tương tác lẫn nhau trên các lĩnh vực của đời sống như chính trị và khoa học, xã hội, chúng cũng liên kết tương tác làm nền tảng cho nhau cùng phát triển để tự tổ chức thành một thể hoàn chỉnh, đồng thời cũng rất mong manh trong việc xác định ranh giới giữa tốt/xấu; đúng/sai; tiến bộ/hay thụt lùi. Xem xét đạo đức trong mối quan hệ với khoa học – công nghệ, Morin cho rằng “khoa học – công nghệ cùng lúc vừa thành công, vừa thất bại. Cả hai đã thành công về vật thể, cả hai đã thất bại về đạo lý” Edgar Morin, 2012, bởi vì tính hai mặt của khoa học – công nghệ đã dẫn đến rào cản trong hành động về mặt đạo đức. Khi cuộc cách mạng khoa học – công nghệ phát triển, nó phục vụ cho con người với dụng ý tốt, làm cho cuộc sống được cải thiện, nhưng con người ngày càng lạm dụng đến mức không thể kiểm soát được về vấn đề hôn mê sâu, nạo phá thai, mang thai hộ…, loại bỏ những cá nhân lệch chuẩn và những yếu tố quy định tố chất của con người, tạo ra các chất nguy hiểm đe dọa loài người; ngoài ra còn dựa vào khoa học để phát triển một cách không tương xứng, gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái xung quanh, trái với đạo lý. Về sau, quyền lực và các phát minh của khoa học hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát nên bị thao túng để phục vụ cho chính khách – quyền lực nhà nước, những người mưu toan đi ngược với đạo đức loài người ở khắp nơi, tất cả đã đồng thời tác động ngược trở lại con người trên mọi lĩnh vực như diệt chủng, thảm họa hạt nhân hay vũ khí hủy diệt lớn, cướp giết… Những quy định, luật lệ, nhục hình được ban ra nhằm áp đặt một cách vô lý đối với đạo đức. Nhìn chung, hai vấn đề nghiêm trọng hơn cả là thảm họa hạt nhân và thảm họa sinh thái. Sự vô tư của khoa học trước mọi nhận định về mặt đạo đức đã tạo ra ranh giới của sự tách biệt giữa khoa học và đạo đức. Khoa học sẽ thiếu định hướng và phương pháp khi không có đạo đức song hành do sự chuyên môn hóa, chia vụn kiến thức, thiếu trách nhiệm. Do sự không kiểm soát của khoa học mà về sau tri thức khoa học liên quan đến đạo đức đã được đề cập, đồng thời cũng đặt ra các vấn đề khác về nhân học và đạo đức trước những mệnh lệnh đạo lý và tôn giáo mang tính nhân văn ẩn sâu trong những con người khoa học đó, và tạo ra những rào cản không cho phép việc áp dụng thí nghiệm khoa học trên con người. Bên cạnh đó là những giải pháp kèm theo nhằm cải tạo tư duy khoa học của nhà khoa học và sự kiểm soát của chính trị đối với đạo đức, tuy nhiên đạo đức và chính trị lại tách biệt nhau. Cùng với khoa học, chính trị cũng mang tính chất giống như mối quan hệ giữa khoa học và đạo đức, bởi các mệnh lệnh một mặt phải tuân thủ mệnh lệnh chính trị, mặt khác tuân theo niềm tin xác tín tạo ra sự đối kháng, sự hy sinh của cái tất yếu cho cái cấp thiết. Ngoài ra còn vấn đề ly hôn, hành vi can thiệp, đàn áp hủy hoại, những cái được cho là văn minh hóa chiến tranh, nhục hình; sự khó kiểm soát của khoa học vào quyền lực chính trị với những mục đích trái với đạo đức con người; chính trị kháng cự với những hành vi đàn áp của nhà nước đã kích động chủ nghĩa khủng bố nhằm vào bất kỳ ai. Điều đó cho thấy đạo đức bị xuống cấp ở vấn đề nhân quyền mà trong chính trị ít quan tâm. Morin viết, “người ta không thể cam chịu hòa tan đạo đức trong chính trị khi nó trở thành một thể chế đơn thuần là bạo tàn, cũng không thể mơ tưởng một nền chính trị sẽ chỉ là nữ tì cho đạo đức” Edgar Morin, 2012, là vì thế. Nhìn chung, theo Morin để có được một xã hội tốt đẹp chỉ có thể là xã hội phức hợp bao hàm sự đối kháng và bất định, đồng thời xã hội ấy phải chứa đựng các yếu tố tái hợp đạo đức như sự tin cậy, thông cảm, đoàn kết và trách nhiệm. 4. Bàn về bản chất của đạo đức học phức hợp, Morin làm rõ nó ở khía cạnh đạo đức về liên kết và sự bất định trong đạo đức. Theo ông, tư duy về đạo đức ở trong kinh thánh, pháp luật, tình yêu của mỗi người…, nhưng nhìn chung những quan niệm ấy đều cho thấy sự bất định và mâu thuẫn trong nhận thức theo cách nhìn nhận riêng và tùy thuộc vào hành động đạo đức được đề cập. Từ xa xưa, để liên kết con người lại với nhau, ngoài tình yêu còn cần có sự đam mê trên lý trí để không bị mông muội và cần có đạo đức cộng đồng. Cảnh sát, quân đội, pháp luật cùng với niềm tin tôn giáo của đấng tối cao với những giáo lý, giáo luật dạy con người sống thiện có đạo đức đã tạo ra những luân lý chung áp đặt cho toàn bộ xã hội và buộc mọi người phải tuân theo. Đạo đức cộng đồng cũng đã thể hiện ở khía cạnh con người đoàn kết với nhau để chống lại các vấn đề thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường…, từ đó khơi gợi suy nghĩ và thái độ đoàn kết, trách nhiệm, hướng tới tương lai tốt đẹp hơn. Theo Morin, đạo đức có nguồn gốc từ nội tâm của chủ thể với những mệnh lệnh tuyệt đối hay quy định từ những truyền thống văn hóa được đúc kết và khẳng định, đồng thời do sự truyền lại cho thế hệ sau những dòng gen, và những yếu tố này tương quan với nhau cùng tồn tại trong cơ thể con người. Nếu cái tôi cá nhân được đề cao để khẳng định bản thân thái độ tự kỷ – trung tâm, thì nhân tố vị tha vì mọi người sẽ giảm xuống, và hai mặt này đấu tranh đối kháng với nhau trong cùng một cơ thể người, nhưng trước sự phát triển của cá nhân luận ấy, con người muốn quay trở về cội nguồn xa xôi với những cơ sở của sự liên kết chủ động về đạo lý. Lòng vị tha sẽ giúp con người chủ động tạo sợi dây liên kết đạo đức với nhau thông qua ý thức, trách nhiệm, đoàn kết và giúp đỡ, để tạo nên nền đạo đức luân lý chung cho cộng đồng xã hội trước sự rạn nứt đạo đức trong bộ ba cá nhân – xã hội – giống loài, trước sự phân chia kiến thức thành từng mảnh nhỏ dẫn đến sự mù lòa về nhận thức và sự bất định đạo đức trong hành động. Sự bất định, mâu thuẫn của đạo đức được Morin thể hiện rõ trong sinh thái hành động đạo đức, vì nhận thức được dụng ý đạo đức cho đến hành vi và kết quả của hành động có thể thay đổi trong sinh thái hành động được diễn ra hành vi đạo đức. Cụ thể như dụng ý đạo đức có ý nghĩa trong hành vi đạo đức, nhưng đôi khi hệ quả của hành vi đạo đức lại trở thành vô đạo đức và ngược lại hệ quả của hành vi vô đạo đức lại trở thành đạo đức, và hành động ấy có thể quay ngược trở lại chính bản thân nó. Những mâu thuẫn, xung đột giữa các mệnh lệnh xuất hiện cùng với những chuẩn thức khái quát hóa, trừu tượng hóa và chuyên biệt trên các lĩnh vực khác nhau từ sự chia vụn kiến thức, làm nảy sinh những hệ quả bất ngờ ngoài ý muốn của chủ thể. Cũng theo Morin, nhận thức thiếu chín chắn về đạo đức khiến con người nhìn nhận quá trình tự thân đạo đức là tính tất yếu. Quá trình này là đưa tự kỷ – trung tâm vào kỷ luật và phát huy đức tính vị tha của mọi người. Trong sự phức hợp cũng chứa sự chia tách/liên kết với nhau theo nguyên tắc đối hợp logic, hồi quy và toàn hình. Để tạo sự liên kết chủ động, cần phải cải cách tư duy cổ điển thành tư duy phức hợp – chuẩn thức phức hợp, nhằm cải cách tư duy và lý trí của con người, biết chấp nhận thân phận bản thân và người khác, chấp nhận sự dị biệt và đồng nhất, để liên kết cá nhân – xã hội – giống loài trên “thái độ thừa nhận tính thống nhất của các đa dạng nhân loại và các đa dạng của tính thống nhất nhân loại” Edgar Morin, 2012, nhằm tạo thành “tấm dệt chung” không thể phân tách. Thêm vào đó, những hạn chế của nhận thức và năng lực tự phê phán dần đưa chủ thể đến đạo lý thô thiển mà ở đó tồn tại sự căm giận, hận thù, khinh miệt và chủ trương quy giản để đánh giá nhân tính của người nào đó là vô đạo đức, hoặc hạ thấp, vứt bỏ họ ra ngoài nhân loại mặc dù thời gian và hoàn cảnh đã thay đổi và họ đã biết lỗi lầm của mình. Thứ đạo lý ấy dần dẫn con người đến thuyết “lưỡng nguyên thiện ác” Edgar Morin, 2012, ngày càng phân tách, và sự hiểu lầm ngày càng gia tăng giữa các nhân tính với nhau. Ngoài việc đánh giá, nhận xét và phê phán những nhân tính khác thì buộc chủ thể cũng phải suy nghĩ về nội quan bên trong của mình để biết được những bất cập, thiếu sót và nhược điểm của bản thân. Con người thường có một tự kỷ – trung tâm, áp đặt một cách chủ quan những suy tư, quan điểm trong sự mù lòa về nhận thức để đánh giá những nhân tính khác, và họ thường có cơ chế tự biện minh cho bản thân dù đó là hành động đúng hay sai, “rộng lượng với sai lầm của bản thân mà quá nghiêm khắc với sai lầm của kẻ khác” Edgar Morin, 2012, Cũng theo Morin, cần phải tự thân xem xét, tự phê phán vì “tự phê phán là trợ thủ đắc lực để chống ảo tưởng tự kỷ – trung tâm và mở rộng hướng ra người khác” Edgar Morin, 2012, đồng thời cũng là chống cự việc tự biện minh, tiếp theo là tinh thần chấp nhận sự phê phán của người khác trên thái độ hòa nhã, khoan dung. Morin cho rằng, trên một hành tinh với tính đa quốc gia, đa dân tộc, văn hóa, tín ngưỡng như hiện nay, sự thống trị của sự thiếu hiểu biết là điều không quá bất ngờ. Nhưng chính sự không hiểu biết ấy lại làm cho con người hiểu lầm nhau qua những hành vi nhận xét sai lệch, đồng thời sự thù hận và khinh miệt đã góp phần tái sinh hành vi thấp hèn. Để tạo ra sự hiểu biết và đồng cảm lẫn nhau, con người cần phải có sự hiểu biết ở cả ba tầng diện khách thể, chủ thể, phức hợp trong quá trình đối hợp với nhau, nhằm hiểu người hiểu ta và hiểu hoàn cảnh, hành vi của nhân tính để có được thái độ chín chắn hơn. 5. Để tiến tới nền đạo đức phức hợp, thì giáo dục là không thể thiếu. Ý tưởng về một nền giáo dục giàu lòng thông cảm, Morin cho rằng nền giáo dục tương lai “cần giảng dạy thái độ thông cảm ngay ở cấp tiểu học, tiếp tục ở trung học, đến đại học nữa” Edgar Morin, 2012, Theo đó, phải có một bộ môn dạy thái độ thông cảm lẫn nhau giữa con người, môn học ấy tích hợp các nội dung đa dạng của các nền văn hóa, kiến thức khoa học nhân văn với nhau, được lồng vào những bài thơ ca, văn chương, điện ảnh hay đơn giản là một bài diễn thuyết để góp phần xây dựng thái độ tích cực cho con người từ đầu đời đến khi trưởng thành, đó là bước đệm cho việc xây dựng đạo đức mới. Đồng thời con người không thể sử sụng hành động trả miếng – trả thù, vì chỉ làm sự mâu thuẫn, đối kháng và phân tách ngày càng thêm trầm trọng. Để chống trả lại cái ác độc của thế giới và thói dã man của loài người, phải “hợp tác, hiểu biết thông cảm, hữu nghị, cộng đồng, tình yêu trong điều kiện chúng được kèm theo bởi trí thông minh mà nếu thiếu hụt ắt có lợi cho sức mạnh ác độc” Edgar Morin, 2012, đồng thời cũng cần có sự hy sinh vì người khác, nếu không thế giới này sẽ dễ trở thành nơi ngự trị của sự cưỡng bức, phá hoại và sự tan rã vô đạo đức. Muốn kiến tạo một nền đạo đức mới, theo Morin phải tiến hành cuộc cải cách tổng hợp trên 5 phương diện Cải cách xã hội nhằm phục vụ ý thức trách nhiệm, tinh thần đoàn kết phục vụ cho chất lượng của cuộc sống; Cải cách cuộc sống để sống tốt và có chất lượng hơn; Cải cách mối quan hệ giữa con người với nhau, với xã hội và môi trường tự nhiên mà không đánh mất tự chủ của bản thân, tái sinh đạo lý nhằm kích hoạt tiềm năng của ta về vị tha và tính cộng đồng; Cải cách khoa học nền khoa học được cải cách thì sẽ góp phần vào cuộc cải cách tâm trí, cho con người một tri thức luận về thế giới, con người; Cải cách giáo dục/tâm trí khả năng tư duy phức hợp các vấn đề toàn cầu và căn bản về nhân thân và xã hội, nó đưa tới một phương thức tư duy cho phép thấu triệt những vấn đề toàn hành tinh, và ý thức được những nhu cầu chính trị – xã hội – đạo đức. 5 con đường cải cách trên cần phải tiến hành một cách tổng hợp vì chúng phụ thuộc và tác động bổ sung lẫn nhau, chúng không thể đơn độc vì phải đối mặt với sự chống trả của những sức mạnh ảo tưởng và sai lầm của con người. Cụ thể, theo Morin, giáo dục với chủ đích là truyền đạt tri thức lại đang đui mù trước nhận thức của con người do những sai lầm và ảo tưởng sống bám vào đầu óc con người từ xưa tới nay. Để khắc phục điều này, theo ông, nền giáo dục mới cần đưa vào và phát triển việc nghiên cứu các đặc điểm trí óc, tinh thần, văn hóa của tri thức con người, những tiến trình và phương thức của nó, những xu thế cả về tâm lý và văn hóa vẫn hay đưa nó đến sai lầm và ảo tưởng. Ông cũng cho rằng, giáo dục cần phát triển nhận thức, khả năng nắm bắt những vấn đề tổng quát, những đối tượng trong bối cảnh, trong tổ hợp, trong tổng thể của chúng, đặt trong các vấn đề tổng quát những nhận thức từng phần và địa phương, bên cạnh đó cần phát huy năng lực tự nhiên của đầu óc, việc giảng dạy cần cung cấp các phương pháp cho phép nắm bắt những tương quan và những ảnh hưởng tương hỗ giữa bộ phận và toàn bộ trong một thế giới phức hợp. Từ tình trạng phân mảnh tri thức trong giáo dục ngày nay, từ quan điểm xem bản chất con người là một nhất thể phức hợp, Morin cho rằng, hoàn cảnh con người cần trở thành đối tượng cơ bản của tất cả mọi sự giảng dạy. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa đang đưa tới tính chất toàn cầu của nhân loại. Do vậy, nhận thức về sự phát triển của thời đại toàn cầu phải trở thành một trong những nội dung hàng đầu của giáo dục. Từ chỗ khẳng định cái bất xác định đang định hình nơi nhận thức và thực tiễn nhân loại, Morin cho rằng, giáo dục phải bao hàm một sự giảng dạy những bất xác định, những nguyên tắc chiến lược cho phép con người đương đầu với chúng. Morin cũng chỉ rõ vai trò của thông cảm và giảng dạy sự thông cảm trong giáo dục nhằm hướng tới nền giáo dục phụng sự hòa bình. Thiếu vắng giáo dục sự thông cảm là nguyên nhân gốc rễ của kỳ thị, bài ngoại, khinh biệt và xung đột. Đồng thời, ông vạch rõ tầm quan trọng của việc xây dựng đạo lý của nhân loại, tức tình đoàn kết toàn cầu. Morin khẳng định, tất cả những phát triển thực sự của con người phải bao gồm sự phát triển cùng lúc những độc lập cá nhân, những tham gia cộng đồng và ý thức mình thuộc về nhân loại, nhằm hướng tới phát triển một cộng đồng toàn cầu và xây dựng những công dân địa cầu. Đạo đức toàn hành tinh muốn được thiết lập thì trước nhất phải thiết lập đạo đức cá nhân con người – nhân học, từ sự nhìn nhận cái khác biệt và đồng nhất trong mối quan hệ giữa con người với nhau, với tự nhiên sinh thái, với xã hội – thế giới, nhằm tạo thêm quan hệ sâu rộng chứ không đánh mất bản chất của cá nhân trong việc đưa đạo đức phổ quát thành cụ thể. Con người ngày càng đoàn kết, vị tha, có trách nhiệm hơn trong thời đại toàn cầu hóa trước sự bất lực trong các vấn đề sống còn để tránh những hiểm họa diệt vong của loài người. Để được như vậy, phải cải cách ba quan hệ cá nhân – xã hội – giống loài, bao hàm các cải cách về xã hội, tâm trí, cuộc sống, giáo dục và khoa học để chuẩn bị cho cuộc biến hình đầy bất trắc nhưng đầy kỳ vọng này. 6. Khái niệm cái ác và cái thiện là hai phạm trù trong đạo đức, đây là hai khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chứa đựng mâu thuẫn trong sự thống nhất chung để tạo sự bất toàn nhằm kích thích tạo ra cái tiến bộ hơn. Cái ác, theo Morin, là sự phân cách từ trong vũ trụ cho đến cá thể sống, làm cho sự tan rã phá vỡ tổ chức, sự thống nhất dựa trên nền tảng của sự phân cách mà thành. Cái ác nhiều và mạnh hơn để chống lại cái liên kết cái thiện nhằm tạo ra sự bất toàn để thiết lập cái mới. Chúng bao gồm cái ác của con người đối với thiên nhiên, với cuộc sống và đặc biệt là cái ác tự ý chủ động làm hại người khác do sự thiếu hiểu biết, lòng căm hận, ích kỷ, không thông cảm, dối trá thái quá – điên cuồng, tính tự kỷ – trung tâm của con người dẫn đến tình trạng tan rã, bạo lực, diệt chủng và tàn phá… Nhìn chung, cái ác là một thể hợp trội trong hoàn cảnh đặc thù chứa đựng mâu thuẫn và bất trắc không thể hợp nhất và gút gọn thành nguyên tắc. Song hành cùng với cái ác là cái thiện của sự liên kết chống lại sự phân cách tan rã, ứng phó với những nan giải xuống cấp, đặt biệt là chống lại cái ác độc của thế giới và thói dã man của con người trên nền tảng mong manh, thiếu chắc chắn, bên cạnh những hy vọng cũng đầy rẫy sự thất vọng. Đạo đức phức hợp là đạo đức của sự liên kết, đạo đức của tình bác ái, tình yêu, thông cảm, vị tha và chấp nhận con người, làm cho bản thân liên kết với người thân, người xung quanh và nhân loại nhờ việc tái sinh lại chủ nghĩa nhân văn thông qua cuộc biến hình đầy cá cược để hình thành “Trái đất – Tổ quốc chung”. Đối với Morin, cứu cánh tối hậu của đạo đức là việc chống lại cái ác độc và man rợ; là sự hoàn thành cuộc sống con người. 7. Nhìn nhận và đánh giá về di sản lý luận của Edgar Morin, ở đây là triết học đạo đức của ông, không phải là một nhiệm vụ lý luận dễ dàng. Bởi lẽ, tất cả những mục đích của “hệ thống” quan điểm do ông xây dựng đều tập trung vào “tính phức hợp”, vào “sự liên kết”, tức ý định xác lập một lý thuyết thống nhất lớn trong triết học về thực tại với tính phức hợp của nó, và bản thân cách tiếp cận phức hợp cũng đã bao hàm trong nó việc chống lại thái độ “tự kỷ – trung tâm”, chống lại tư duy đơn giản hóa, vốn giam hãm loài người trong trí tuệ mù lòa. Nhưng sẽ là không thỏa đáng nếu nhìn nhận nó như là một chủ nghĩa chiết trung về đạo đức. Bởi vì, Morin xây dựng cách tiếp cận phức hợp dựa trên sự thấu hiểu những thành tựu khoa học hiện đại trong vật lý học, sinh học, lý thuyết hệ thống, điều khiển học, lý thuyết thông tin, lý thuyết tự tổ chức và các chất liệu từ hiện thực xã hội sôi động của thế kỷ XX, cũng như lịch sử triết học thời trước. Cùng với nhiều cách tiếp cận đạo đức học đã có trước đó, như khuynh hướng duy lý – duy khoa học, khuynh hướng phi duy lý và khuynh hướng tôn giáo, cách tiếp cận phức hợp của Morin đã đưa lại cho triết học đạo đức một công cụ lý luận để nắm bắt và lý giải cho những vấn đề phức tạp và cấp bách khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng đạo đức, cái dã man, cái độc ác nảy sinh trong thực tiễn và lý luận đạo đức hiện đại. Xem xét đạo đức trong tính phức hợp của nó, trong các mối quan hệ đa diện, nhiều tầng và cụ thể của nó, triết học đạo đức của Morin thể hiện một số ý tưởng đồng kết với các nguyên tắc phương pháp luận của triết học mác xít quan điểm khách quan, quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử – cụ thể và quan điểm phát triển trong nhận thức và cải tạo thực tiễn đạo đức, hướng tới việc kết nối giữa tiến bộ lý trí và đạo đức nhằm giải thoát con người khỏi cái ác, lấy đạo lý nhân tính làm cứu cánh hướng đến hoàn thiện con người thay vì lấy nhau làm phương tiện. Từ ngàn xưa, việc xua đuổi cái ác và tạo lập cái thiện là một nghĩa vụ tự thân mà loài người dùng để chấp nhận số phận của mình như là những sinh vật có đạo đức. Theo quan điểm đạo đức học mác xít, chỉ có thể hiểu biết và xây dựng thành công một nền đạo đức mới, ở đó “tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như K. Marx nói, chừng nào xã hội không còn áp bức, bóc lột và bất công. Bởi theo chủ nghĩa Marx, xóa bỏ chế độ tư hữu là tất yếu của việc giải phóng con người khỏi sự tha hóa. Và với tư cách là phong trào hiện thực, chủ nghĩa cộng sản là hình thái xã hội khả thể cho việc xây dựng một nền đạo đức tiến bộ và thực sự nhân văn. Nếu không, các bàn luận về đạo đức chỉ dừng lại ở sự trừu tượng, phi lịch sử, dù cho nó có tin tưởng và quý trọng con người đến đâu chăng nữa. * * * Sự phát triển của khoa học và thực tiễn trong thế kỷ XX đã đưa lại cho nhân loại bức tranh về một thực tại với tính phức hợp của nó, trong đó có thực tại đạo đức. Đối diện với tính phức hợp của đạo đức, của cái thiện, cái ác, khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng đạo đức, theo Morin, đạo đức học phức hợp có nhiệm vụ nghiên cứu, làm sáng tỏ các cơ sở và các nguyên tắc của luân lý. Cũng tức là nhấn mạnh vai trò của việc liên kết chủ động với người khác, với cộng đồng, với xã hội và với nòi giống. Điều kiện để thực hiện chúng tương ứng với ba nhánh của đạo đức học là tự thân đạo đức, đạo đức xã hội và đạo đức nhân loại, mục đích cuối cùng của đạo đức là việc chống lại cái ác độc, man rợ và hoàn thiện cuộc sống con người. Triết học đạo đức của Edgar Morin trên các khía cạnh, có những điểm đồng kết với quan điểm phương pháp luận của triết học mác xít, góp thêm một công cụ lý luận cho việc xem xét và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn và lý luận đạo đức hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Vũ Hảo 2013, “Đạo đức học phương tây đương đại Tổng quan các trào lưu và các vấn đề chủ yếu”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 4. 2. Phạm Khiêm Ích 2013, “Đạo đức học phức hợp qua bộ sách của Edgar Morin”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 2. 3. Phạm Khiêm Ích 2008, “Edgar Morin và triết học gáo dục”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 8. 4. Edgar Morin 2012, Phương pháp 6 – Đạo đức học, Chu Tiến Ánh dịch, Phạm Khiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 5. Edgar Morin 2008, Nhập môn tư duy phức hợp, Chu Tiến Ánh và Chu Trung Can dịch, Phạm Kiêm Ích biên tập và giới thiệu, Nxb. Tri thức, Hà Nội. 6. Edgard Morin Chủ biên, 2005, Thách đố của thế kỷ XXI – Liên kết tri thức, Bản dịch của Chu Tiến Ánh và Vương Toàn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 7. Edgard Morin 2008, Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai, Bản dịch của Nguyễn Hồi Thủ, Nxb. Tri thức, Hà Nội. Nguồn Thông tin Khoa học xã hội, số 5-2016 Thánh Địa Việt Nam Học
Immanuel Kant 1724-1804 thường được coi là một trong những nhà triết học sâu sắc và nguyên bản nhất từng sống. Ông cũng nổi tiếng không kém về siêu hình học - chủ đề của "Phê bình lý tính thuần túy" —và triết lý đạo đức được nêu trong "Cơ sở cho siêu hình học về đạo đức" và "Phê bình lý tính thực tế" mặc dù "Cơ sở" là càng dễ hiểu hơn. Một vấn đề cho sự khai sáng Để hiểu triết lý đạo đức của Kant, điều quan trọng là phải làm quen với các vấn đề mà ông và các nhà tư tưởng khác cùng thời với ông, đang giải quyết. Từ lịch sử ghi lại sớm nhất, niềm tin và thực hành đạo đức của con người được đặt trên cơ sở tôn giáo. Kinh thánh, chẳng hạn như kinh thánh và kinh Qur'an, đặt ra các quy tắc đạo đức mà các tín đồ được cho là được truyền lại từ Chúa Không giết người. Đừng ăn cắp. Đừng ngoại tình , vân vân. Thực tế là những quy tắc này được cho là đến từ một nguồn trí tuệ thiêng liêng đã ban cho họ quyền hạn của họ. Chúng không chỉ đơn giản là ý kiến độc đoán của ai đó, chúng là ý kiến của Chúa, và như vậy, chúng đưa ra cho loài người một quy tắc ứng xử hợp lệ về mặt khách quan. Hơn nữa, mọi người đều có động cơ để tuân theo những quy tắc này. Nếu bạn “đi theo đường lối của Chúa,” bạn sẽ được thưởng, trong đời này hay đời sau. Nếu bạn vi phạm các điều răn, bạn sẽ bị trừng phạt. Kết quả là, bất kỳ người nhạy cảm nào được nuôi dưỡng trong một đức tin như vậy sẽ tuân thủ các quy tắc đạo đức mà tôn giáo của họ đã dạy. Với cuộc cách mạng khoa học của thế kỷ 16 và 17 dẫn đến phong trào văn hóa vĩ đại được gọi là Khai sáng, những học thuyết tôn giáo được chấp nhận trước đây này ngày càng bị thách thức khi niềm tin vào Chúa, thánh kinh và tôn giáo có tổ chức bắt đầu suy giảm trong giới trí thức - nghĩa là, tầng lớp có học. Nietzsche đã mô tả nổi tiếng sự thay đổi này khỏi tôn giáo có tổ chức là “cái chết của Chúa”. Cách suy nghĩ mới này đã tạo ra một vấn đề cho các triết gia đạo đức Nếu tôn giáo không phải là nền tảng mang lại giá trị cho các niềm tin đạo đức, thì có thể có nền tảng nào khác? Nếu không có Chúa - và do đó không có sự đảm bảo của công lý vũ trụ đảm bảo rằng những người tốt sẽ được khen thưởng và những kẻ xấu sẽ bị trừng phạt - tại sao mọi người lại phải cố gắng trở nên tốt? Nhà triết học đạo đức người Scotland Alisdair MacIntrye gọi đây là “vấn đề Khai sáng”. Giải pháp mà các nhà triết học đạo đức cần đưa ra là xác định thế tục phi tôn giáo về đạo đức là gì và tại sao chúng ta nên cố gắng trở thành đạo đức. Ba phản ứng đối với vấn đề khai sáng Lý thuyết khế ước xã hội— Một câu trả lời cho Vấn đề Khai sáng được tiên phong bởi nhà triết học người Anh Thomas Hobbes 1588-1679, người đã lập luận rằng đạo đức về cơ bản là một tập hợp các quy tắc mà con người đồng ý với nhau để có thể chung sống với nhau. Nếu chúng ta không có những quy tắc này — nhiều quy tắc trong số đó là hình thức của luật do chính phủ thực thi — cuộc sống của mọi người sẽ hoàn toàn khủng khiếp. Chủ nghĩa lợi dụng - Chủ nghĩa lợi dụng, một nỗ lực khác nhằm tạo cho đạo đức một nền tảng phi tôn giáo, được tiên phong bởi các nhà tư tưởng bao gồm David Hume 1711-1776 và Jeremy Bentham 1748-1842 . Chủ nghĩa lợi dụng cho rằng niềm vui và hạnh phúc có giá trị nội tại. Chúng là thứ mà tất cả chúng ta mong muốn và là mục tiêu cuối cùng mà mọi hành động của chúng ta hướng tới. Một cái gì đó tốt nếu nó thúc đẩy hạnh phúc, và nó xấu nếu nó tạo ra đau khổ. Nhiệm vụ cơ bản của chúng ta là cố gắng làm những điều để tăng thêm hạnh phúc và / hoặc giảm bớt số lượng đau khổ trên thế giới. Đạo đức học Kant - Kant không có thời gian cho chủ nghĩa Bất lợi. Ông tin vào việc đặt trọng tâm vào hạnh phúc, lý thuyết hoàn toàn hiểu sai bản chất thực sự của đạo đức. Theo quan điểm của ông, cơ sở cho ý thức của chúng ta về điều tốt hay xấu, đúng hay sai, là nhận thức của chúng ta rằng con người là những tác nhân tự do, hợp lý, những người cần được tôn trọng phù hợp với những sinh vật đó — nhưng chính xác thì điều đó đòi hỏi điều gì? Vấn đề với chủ nghĩa lợi dụng Theo quan điểm của Kant, vấn đề cơ bản của thuyết vị lợi là nó đánh giá các hành động dựa trên hệ quả của chúng. Nếu hành động của bạn khiến mọi người vui vẻ thì thật tốt; nếu nó làm ngược lại, nó là xấu. Nhưng điều này có thực sự trái ngược với những gì chúng ta có thể gọi là đạo đức thông thường không? Hãy xem xét câu hỏi này Ai là người tốt hơn, triệu phú tặng đô la cho tổ chức từ thiện để ghi điểm với lượt theo dõi trên Twitter của mình hay người lao động lương tối thiểu quyên góp tiền một ngày cho tổ chức từ thiện vì cô ấy nghĩ rằng mình có nhiệm vụ phải giúp đỡ những người nghèo khổ? Nếu hậu quả là tất cả những gì quan trọng, thì hành động của triệu phú về mặt kỹ thuật là "tốt hơn". Nhưng đó không phải là cách mà đa số mọi người sẽ nhìn nhận tình hình. Hầu hết chúng ta đánh giá hành động vì động cơ của chúng hơn là hậu quả của chúng. Lý do là rõ ràng hậu quả của các hành động của chúng ta thường nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta, giống như quả bóng nằm ngoài tầm kiểm soát của người ném bóng một khi nó rời khỏi tay anh ta. Tôi có thể cứu một mạng người trong rủi ro của chính mình, và người tôi cứu có thể trở thành một kẻ giết người hàng loạt. Hoặc tôi có thể vô tình giết ai đó trong quá trình cướp của họ, và làm như vậy có thể vô tình cứu thế giới khỏi một tên bạo chúa khủng khiếp. Ý chí tốt Tác phẩm "Groundwork" của Kant mở đầu bằng dòng "Điều duy nhất tốt vô điều kiện là một ý chí tốt." Lập luận của Kant cho niềm tin này là khá hợp lý. Hãy xem xét bất cứ điều gì bạn nghĩ về mặt "tốt" —chính xác, giàu có, xinh đẹp, thông minh, Đối với mỗi điều này, bạn cũng có thể hình dung ra một tình huống mà cái gọi là điều tốt này rốt cuộc lại không tốt. Ví dụ, một người có thể bị hư hỏng bởi sự giàu có của họ. Sức khỏe dẻo dai của kẻ bắt nạt khiến hắn dễ dàng lạm dụng nạn nhân hơn. Vẻ đẹp của một người có thể khiến cô ấy trở nên vô dụng và không phát triển được sự trưởng thành về mặt cảm xúc. Ngay cả hạnh phúc cũng không tốt nếu nó là hạnh phúc của một kẻ bạo dâm tra tấn nạn nhân không muốn. Ngược lại, thiện chí, Kant nói, luôn luôn tốt - trong mọi hoàn cảnh. Chính xác thì Kant có nghĩa là gì với thiện chí? Câu trả lời là khá đơn giản. Một người hành động không thiện chí khi họ làm những gì họ làm vì họ nghĩ rằng đó là nghĩa vụ của họ — khi họ hành động từ ý thức về nghĩa vụ đạo đức. Nghĩa vụ so với Độ nghiêng Rõ ràng, chúng ta không thực hiện mọi hành động nhỏ từ ý thức nghĩa vụ. Phần lớn thời gian, chúng ta chỉ đơn giản làm theo khuynh hướng của mình — hoặc hành động vì tư lợi. Về bản chất, không có gì sai với điều đó, tuy nhiên, không ai xứng đáng được ghi nhận vì theo đuổi lợi ích của chính họ. Nó đến với chúng ta một cách tự nhiên, cũng như nó đến một cách tự nhiên với mọi loài động vật. Tuy nhiên, điều đáng chú ý ở con người là chúng ta có thể, và đôi khi làm, thực hiện một hành động từ động cơ đạo đức thuần túy — ví dụ, khi một người lính ném lựu đạn vào mình, hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng người khác. Hoặc ít hơn đáng kể, tôi trả lại một khoản vay hữu nghị như đã hứa mặc dù ngày lãnh lương không còn trong một tuần nữa và làm như vậy tôi sẽ tạm thời thiếu tiền mặt. Theo quan điểm của Kant, khi một người tự do lựa chọn làm điều đúng chỉ vì đó là điều đúng đắn phải làm, hành động của họ sẽ làm tăng giá trị cho thế giới và thắp sáng nó, có thể nói, với một ánh sáng đạo đức ngắn ngủi. Nói rằng mọi người nên làm nhiệm vụ của họ từ một ý thức nghĩa vụ là dễ dàng - nhưng làm thế nào chúng ta phải biết nghĩa vụ của mình là gì? Đôi khi chúng ta có thể thấy mình phải đối mặt với những tình huống khó xử về đạo đức, trong đó không rõ hành động nào là đúng về mặt đạo đức. Theo Kant, tuy nhiên, trong hầu hết các tình huống, nghĩa vụ là điều hiển nhiên. Nếu chúng ta không chắc chắn, chúng ta có thể tìm ra câu trả lời bằng cách phản ánh nguyên tắc chung mà Kant gọi là “Mệnh lệnh phân loại”. Ông tuyên bố đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức và tất cả các quy tắc và giới luật khác có thể được suy ra từ nó. Kant đưa ra một số phiên bản khác nhau của mệnh lệnh phân loại này. Một câu nói như sau "Chỉ hành động theo châm ngôn mà bạn có thể làm như một luật chung." Về cơ bản, điều này có nghĩa là chúng ta chỉ nên tự hỏi bản thân, Sẽ thế nào nếu mọi người hành động theo cách tôi đang hành động? Tôi có thể chân thành và nhất quán mong muốn về một thế giới mà mọi người đều cư xử theo cách này không? Theo Kant, nếu hành động của chúng ta là sai về mặt đạo đức, câu trả lời cho những câu hỏi đó sẽ là không. Ví dụ, giả sử tôi đang nghĩ đến việc thất hứa. Tôi có thể ước một thế giới mà mọi người đã thất hứa khi giữ chúng là điều bất tiện? Kant lập luận rằng tôi không thể muốn điều này, đặc biệt là bởi vì trong một thế giới như vậy không ai dám hứa vì mọi người đều biết rằng một lời hứa chẳng có nghĩa lý gì. Nguyên tắc Kết thúc Một phiên bản khác của Mệnh lệnh phân biệt mà Kant đưa ra nói rằng người ta nên “luôn coi mọi người là mục đích của chính họ, không bao giờ chỉ đơn thuần là phương tiện cho mục đích của chính mình.” Điều này thường được gọi là “nguyên tắc kết thúc”. Mặc dù giống với Quy tắc vàng "Hãy làm với người khác như bạn sẽ làm cho họ đối với bạn", nó tạo cơ sở cho việc tuân theo quy tắc đối với loài người hơn là chấp nhận sự nghiêm khắc của ảnh hưởng thần thánh. Chìa khóa cho niềm tin của Kant về điều khiến con người trở thành con người có đạo đức là thực tế rằng chúng ta là những sinh vật tự do và có lý trí. Đối xử với ai đó như một phương tiện cho mục đích hoặc mục đích của riêng bạn là không tôn trọng sự thật này về họ. Ví dụ, nếu tôi khiến bạn đồng ý làm điều gì đó bằng cách hứa sai, thì tôi đang thao túng bạn. Quyết định của bạn để giúp tôi dựa trên thông tin sai lệch ý tưởng rằng tôi sẽ giữ lời hứa của mình. Bằng cách này, tôi đã phá hoại sự hợp lý của bạn. Điều này càng rõ ràng hơn nếu tôi ăn cắp của bạn hoặc bắt cóc bạn để đòi tiền chuộc. Ngược lại, coi ai đó là cứu cánh bao gồm việc luôn tôn trọng sự thật rằng họ có khả năng tự do lựa chọn hợp lý, có thể khác với những lựa chọn mà bạn mong muốn họ đưa ra. Vì vậy, nếu tôi muốn bạn làm điều gì đó, hành động đạo đức duy nhất là giải thích tình huống, giải thích những gì tôi muốn và để bạn tự quyết định. Khái niệm Khai sáng của Kant Trong bài luận nổi tiếng của mình "Khai sáng là gì?" Kant định nghĩa nguyên tắc là "sự giải phóng của con người khỏi sự non nớt tự áp đặt của mình." Điều này có nghĩa là gì, và nó có liên quan gì đến đạo đức của anh ta? Các câu trả lời quay trở lại vấn đề tôn giáo không còn cung cấp một nền tảng thỏa đáng cho đạo đức. Cái mà Kant gọi là “sự non nớt” của nhân loại là thời kỳ mà con người không thực sự nghĩ cho bản thân, thay vào đó, thường được chấp nhận các quy tắc đạo đức do tôn giáo, truyền thống hoặc các nhà chức trách như nhà thờ, lãnh chúa hoặc vua truyền lại cho họ. Sự mất niềm tin vào thẩm quyền đã được công nhận trước đây này được nhiều người coi là một cuộc khủng hoảng tinh thần đối với nền văn minh phương Tây. Nếu "Chúa đã chết, làm sao chúng ta biết điều gì là đúng và điều gì là đúng?" Câu trả lời của Kant là mọi người chỉ đơn giản là phải giải quyết những điều đó cho chính họ. Đó không phải là một điều gì đó để than thở, nhưng cuối cùng, một điều gì đó để kỷ niệm. Đối với Kant, đạo đức không phải là vấn đề ý thích chủ quan được đặt ra dưới danh nghĩa thần thánh, tôn giáo hay luật pháp dựa trên các nguyên tắc được ban hành bởi những người phát ngôn trên đất của các vị thần đó. Kant tin rằng “luật luân lý” — mệnh lệnh phân loại và mọi thứ nó bao hàm — là thứ chỉ có thể được khám phá thông qua lý trí. Nó không phải là một cái gì đó áp đặt lên chúng tôi mà không có. Thay vào đó, đó là một quy luật mà chúng ta, với tư cách là những sinh vật có lý trí, phải áp đặt lên chính mình. Đây là lý do tại sao một số cảm xúc sâu sắc nhất của chúng ta được phản ánh trong sự tôn kính của chúng ta đối với luật đạo đức, và tại sao, khi chúng ta hành động như thể chúng ta tôn trọng nó - nói cách khác, từ ý thức bổn phận - chúng ta hoàn thành mình với tư cách là những người có lý trí.
- Đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và không trừ lĩnh vực nào. Đạo đức khác với những hình thức điều chỉnh hoạt động cộng đồng khác pháp quyền, những quy chế hành chính sản xuất, những sắc lệnh nhà nước, những truyền thống dân tộc… ở phương thức luận chứng và thực hiện những yêu cầu của mình. Trong đạo đức, sự cần thiết xã hội, những nhu cầu, lợi ích của xã hội hoặc của các giai tầng biểu hiện dưới hình thức những quy định và những sự đánh giá đã được mọi người thừa nhận và thành hình một cách tự phát, được củng cố bằng sức mạnh của những “tấm gương” của cộng đồng, của thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Cho nên, những yêu cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm không riêng một ai, như nhau đối với tất cả, nhưng không chịu sự ra lệnh của ai cả. Những yêu cầu này có tính chất tương đối bền vững. Chúng khác phong tục đơn giản hoặc truyền thống đã được duy trì bởi sức mạnh của một trật tự đã ổn định, ở chỗ chúng có cơ sở tư tưởng dưới hình thức quan niệm về việc con người phải sống và phải cư xử như thế nào. Đạo đức khác pháp luật ở một số điểm căn bản. Thứ nhất, việc mỗi người thực hiện những yêu cầu đạo đức là được tất cả mọi người kiểm tra, hơn nữa, uy tín đạo đức của một cá nhân không hề gắn liền với bất kỳ quyền hạn chính thức nào. Thứ hai, việc thực hiện các yêu cầu đạo đức chỉ được phê chuẩn bằng những hình thức tác động tinh thần nhận xét của xã hội, tán thành hoặc lên án những hành vi đã được thực hiện. Điều này quy định vai trò của ý thức trong đạo đức là tương đối lớn hơn so với những hình thức kiểm tra khác của xã hội; đồng thời, ý thức đó có thể biểu hiện dưới hình thức duy lý của những khái niệm và phán đoán, cũng như dưới hình thức cảm xúc của tình cảm, động cơ, ham muốn. Bên cạnh ý thức xã hội, ý thức cá nhân cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong đạo đức. Dựa vào những quan niệm đạo đức do xã hội đề ra, lĩnh hội những quan niệm đó trong quá trình giáo dục, với mức độ đáng kể, cá nhân có thể tự điều chỉnh hành vi của mình và tự nhận định về ý nghĩa đạo đức của tất cả những gì diễn ra xung quanh. Nhờ vậy, trong đạo đức, cá nhân thể hiện không chỉ với tư cách là khách thể, mà còn với tư cách là chủ thể có ý thức của sự kiểm tra xã hội, có nghĩa là nhân cách đạo đức. Vốn là một thành tạo xã hội phức tạp, đạo đức bao gồm hoạt động theo quan điểm nội dung và động cơ của nó việc mọi người thừa nhận phải cư xử như thế nào đó, hành vi của một tập hợp người, phong tục; những quan hệ đạo đức điều chỉnh hoạt động đó và được biểu hiện trong những hình thức khác nhau của bổn phận, của yêu cầu đối với con người lương tâm, nghĩa vụ, phẩm cách, tiêu chuẩn đạo đức, trách nhiệm; ý thức đạo đức phản ánh những quan hệ trên ở dạng những quan niệm thích hợp những tiêu chuẩn, những nguyên tắc, những lý tưởng xã hội và đạo đức, những khái niệm thiện ác, công bằng và bất công. Tất cả những hình thức này của ý thức đạo đức được hợp nhất thành hệ thống được sắp xếp một cách logic cho phép không chỉ quy định, mà còn luận chứng và đánh giá một cách nhất định những hành động đạo đức. Áp dụng vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong đạo đức hình thành những quy tắc đặc biệt đạo đức lao động, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức sinh hoạt, đạo đức gia đình… mà những quy tắc này chỉ hợp thành những lĩnh vực tương đối độc lập có một luận cứ thống nhất của đạo đức. Đạo đức là một hiện tượng mang tính lịch sử. Xuất hiện vào những trình độ hình thành ban đầu của xã hội loài người, đạo đức được phát triển trong tiến trình biến đổi các quan hệ về kinh tế và các quan hệ xã hội khác, trong tiến trình tiến bộ văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của loài người. Bên cạnh những yếu tố chung cho loài người, đạo đức bao gồm những tiêu chuẩn, những nguyên tắc, những lý tưởng… có tính chất nhất thời về lịch sử và có tính chất của một cộng đồng người cũng như giai tầng cụ thể trong xã hội. t/h Triết Học – - About us This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC CƠ SỞ HẠ TẦNG - KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG > TỪ ĐIỂN TRIẾT HỌC BỘ LẠC - BỘ TỘC > 12 CUNG HOÀNG ĐẠO BẢO BÌNH - AQUARIUS 20/01 - 18/02 > PHONG THỦY TỔNG HỢP NGŨ HÀNH TRONG PHONG THỦY CỦA KHU VƯỜN
Tóm tắt Học thuyết luân lý và đạo đức được xem là một trong những nền móng vững chắc giúp Nho gia lan tỏa sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, tư tưởng, lối sống của nhiều quốc gia trong khu vực Đông Á, trong đó có Việt Nam. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng luân lý và đạo đức của Nho gia được thể hiện tập trung trong các mối quan hệ Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em và bạn hữu, mà ở đó "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" được xem là chuẩn mực đạo đức. Bài viết nhằm khái quát những nội dung cơ bản trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, chỉ ra những ảnh hưởng của nó đối với văn hóa Việt Nam truyền thống, từ đó cho thấy sức sống mãnh liệt và sự đa dạng trong tiếp biến của văn hóa dân tộc khi đứng trước nhiều biến thiên của lịch sử. Từ khóa Luân lý, đạo đức, Nho giáo, ngũ luân, tam cương, ngũ thường. Nghiên cứu những tác động của Nho giáo đối với văn hóa dân tộc là một việc làm không mới nhưng luôn có những khó khăn nhất định, nhất là đối với một quốc gia đa tôn giáo, đa tộc người và có nền văn hóa mang sắc thái riêng như Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa thì xã hội Việt Nam dù chịu sự tác động sâu, rộng bởi nhiều luồng tư tưởng khác nhau từ bên ngoài, nhưng nhìn chung chúng đều không lấn át hoặc xóa nhòa được những dấu ấn của các giá trị văn hóa bản địa của người Việt. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, các yếu tố văn hóa ngoại lai luôn được điều chỉnh và tự điều chỉnh để thích nghi, hòa nhập với con người và thiết chế văn hóa Việt Nam, trong đó có học thuyết về luân lý và đạo đức của Nho giáo. Học thuyết luân lý và đạo đức được xem là chủ đạo trong hệ thống triết học Nho giáo, đã ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, tư tưởng, lối sống của các quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu các chiều kích tác động đến văn hóa Việt Nam, nhiều người đã cho rằng, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Hoa, trong đó dấu ấn lớn nhất là Nho giáo. 1. Về thuật ngữ luân lý và đạo đức Nghiên cứu về luân lý và đạo đức, chúng ta thấy có sự liên quan và khác biệt tương đối giữa luân lý và đạo đức. Trong triết học phương Tây, có hai thuật ngữ là TRIẾT HỌC, SỐ 2 345, THÁNG 2-2020 Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN 59HỌC THUYẾT LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN VĂN HÓA VIỆT NAM Lâm Bá Hòa* * Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Email lamtuelam Nhận ngày 5 tháng 11 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 1 năm 2020. Tóm tắt Học thuyết luân lý và đạo đức được xem là một trong những nền móng vững chắc giúp Nho gia lan tỏa sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, tư tưởng, lối sống của nhiều quốc gia trong khu vực Đông Á, trong đó có Việt Nam. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng luân lý và đạo đức của Nho gia được thể hiện tập trung trong các mối quan hệ Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bạn hữu, mà ở đó “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” được xem là chuẩn mực đạo đức. Bài viết nhằm khái quát những nội dung cơ bản trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, chỉ ra những ảnh hưởng của nó đối với văn hóa Việt Nam truyền thống, từ đó cho thấy sức sống mãnh liệt và sự đa dạng trong tiếp biến của văn hóa dân tộc khi đứng trước nhiều biến thiên của lịch sử. Từ khóa Luân lý, đạo đức, Nho giáo, ngũ luân, tam cương, ngũ thường. Nghiên cứu những tác động của Nho giáo đối với văn hóa dân tộc là một việc làm không mới nhưng luôn có những khó khăn nhất định, nhất là đối với một quốc gia đa tôn giáo, đa tộc người và có nền văn hóa mang sắc thái riêng như Việt Nam. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn hóa thì xã hội Việt Nam dù chịu sự tác động sâu, rộng bởi nhiều luồng tư tưởng khác nhau từ bên ngoài, nhưng nhìn chung chúng đều không lấn át hoặc xóa nhòa được những dấu ấn của các giá trị văn hóa bản địa của người Việt. Trong quá trình tiếp biến văn hóa, các yếu tố văn hóa ngoại lai luôn được điều chỉnh và tự điều chỉnh để thích nghi, hòa nhập với con người và thiết chế văn hóa Việt Nam, trong đó có học thuyết về luân lý và đạo đức của Nho giáo. Học thuyết luân lý và đạo đức được xem là chủ đạo trong hệ thống triết học Nho giáo, đã ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, tư tưởng, lối sống của các quốc gia chịu ảnh hưởng của Nho giáo, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu các chiều kích tác động đến văn hóa Việt Nam, nhiều người đã cho rằng, văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Trung Hoa, trong đó dấu ấn lớn nhất là Nho giáo. 1. Về thuật ngữ luân lý và đạo đức Nghiên cứu về luân lý và đạo đức, chúng ta thấy có sự liên quan và khác biệt tương đối giữa luân lý và đạo đức. Trong triết học phương Tây, có hai thuật ngữ là TRIẾT HỌC, SỐ 2 345, THÁNG 2 - 2020 HỌC THUYẾT LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO... 60 đạo đức học “ethics” - ngành học, môn học về đạo đức - và đạo đức “morals”, luân lý bắt nguồn từ tiếng Latin “moralis” có nghĩa là phong tục hay cách cư xử. Tùy vào các thời đại và hoàn cảnh lịch sử khác nhau hoặc cách tiếp cận khác nhau, có nhiều cách hiểu khác nhau về luân lý. Trong triết học phương Đông, luân lý và đạo đức là hai thuật ngữ có liên quan chặt chẽ. Đạo đức được hiểu theo nghĩa rộng là luật vận hành của tự nhiên và xã hội. Theo nghĩa hẹp, đạo đức là hệ thống chuẩn mực hành vi của con người được xã hội, tập đoàn người thừa nhận và tuân thủ. Trong Nho giáo, luân lý chính là quy luật của các mối quan hệ giữa người với người. Khi con người hành động tuân thủ các quy luật, theo luân lý, thì đó là đạo đức. Đạo đức chính là các chuẩn mực hành vi của con người phù hợp với luân lý. Định nghĩa đạo đức trong triết học phương Tây cũng có nhiều quan điểm khác nhau và thường được nêu lên ở hai khía cạnh Định nghĩa mô tả và định nghĩa quy phạm. Với định nghĩa mô tả thì đạo đức là các quy tắc ứng xử nhất định cho hành vi của chính mình được đưa ra bởi một xã hội hoặc một cộng đồng, hoặc được chấp nhận bởi một cá nhân. Theo định nghĩa quy phạm thì đạo đức là một bộ quy tắc ứng xử, là những giá trị đạo đức, những quy chuẩn làm người của xã hội, là văn hóa của một cộng đồng tôn giáo, một quốc gia nơi mà cá nhân sinh sống. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, không phải tất cả các quy tắc được đưa ra bởi các xã hội, các nhóm, hoặc cộng đồng người đều là các quy tắc đạo đức theo nghĩa mô tả, và không phải tất cả các quy tắc được chấp nhận bởi các yếu tố cấu thành đạo đức thì đều là các quy tắc đạo đức theo nghĩa đạo đức quy phạm. Chúng tôi cho rằng, dù định nghĩa theo hướng mô tả hay quy phạm thì đạo đức vẫn là bộ quy tắc ứng xử của con người, đồng thời là “quy tắc của sinh hoạt chung trong xã hội và của hành vi của con người, quy định những nghĩa vụ của người này đối với người khác và đối với xã hội”1. Như vậy, đạo đức học được xem là một khoa học quy phạm, nó nghiên cứu các quy ước hoặc tiêu chuẩn, theo đó các hành vi hoặc cách ứng xử của con người với con người và của con người với cộng đồng được đo lường hoặc đánh giá. Mặt khác, đạo đức là một phương pháp để mô tả cách thực hành hoặc hành vi ứng xử của con người trong xã hội. Cũng có thể nói, đạo đức là bộ quy tắc buộc mỗi người sống trong cộng đồng phải tuân theo. Luân lý và đạo đức là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít người vẫn nhầm lẫn trong cách sử dụng các từ đạo đức và luân lý thay thế cho nhau, hoặc xem chúng là từ đồng nghĩa. Khi đề cập đến vấn đề này Phan Chu Trinh đã cho rằng “Như chữ đạo đức và luân lý ta thường cho là một nghĩa chớ không biết rằng đạo đức là đạo đức, luân lý là luân lý. Đạo đức gồm cả luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo đức mà thôi, Người có đạo đức là người ở trong đạo làm người vậy. 1 Rodentan và Pludin 1976, Từ điển triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội, LÂM BÁ HÒA 61Đạo đức như thế thì không có mới có cũ, có đông có tây nào nữa, nghĩa là nhất thiết đời nào, người nào cũng giữ được cái đạo đức ấy mới là trọn vẹn”. Ông cho rằng con người ta dù ở vị trí nào trong xã hội thì “cũng không tài nào vượt qua khỏi chân lý của đạo đức nghĩa là đạo đức thì không bao giờ thay đổi được. Luân lý thì không thế. Luân lý có thể thay đổi được luôn. Luân lý thì mỗi người mỗi khác”2. Với đặc điểm nổi bật là một hệ thống triết học bàn nhiều về các vấn đề chính trị, đạo đức, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo tập trung vào các mối quan hệ giữa người với người trong xã hội và những chuẩn mực ứng xử của con người trong các mối quan hệ đó, “Tam cương bao gồm quân vi thần cương vua là đầu mối của quan hệ vua tôi, phụ vi tử cương cha là đầu mối của quan hệ cha con và phu vi thê cương chồng là đầu mối của quan hệ vợ chồng. Ngũ luân bao gồm quân - thần; phụ - tử; phu - phụ; huynh - đệ; bằng - hữu. Trong đó, hệ thống luân lý tam cương là quan trọng nhất. Nó được xem là rường cột của luân lý Nho gia. Các quan hệ này được nhấn mạnh ở phương diện đẳng cấp, tôn ty”3. 2. Quan điểm luân lý và đạo đức của Nho giáo Theo quan điểm của Nho giáo, luân lý và đạo đức chính là cái gốc của con người, là những khuôn mẫu căn bản nhất thể hiện tính cách của một con người. Nho giáo khuôn mọi mối quan hệ giữa người với người trong xã hội vào năm mối quan hệ cơ bản, gọi là ngũ luân, gồm quan hệ vua - tôi, chồng - vợ, cha - con, anh - em và bạn hữu. Với mỗi mối quan hệ, Nho giáo lại tìm ra một cái lý riêng, chi phối, quy định cách ứng xử của con người trong mối quan hệ ấy. Ví dụ, trong mối quan hệ vua - tôi thì vua đối với bề tôi phải theo lễ, bề tôi đối với vua phải theo đức trung. Trong mối quan hệ cha - con thì cha phải từ và con phải hiếu... Khi mỗi người hành động, ứng xử đúng với cái lý đúng đắn của mỗi mối quan hệ thì đó là người có đạo đức. Trong Huấn điều của Minh Mạng có viết “Đạo làm người không có gì cốt yếu là làm cho luân lý được trong sáng vua tôi có nghĩa, cha con có tình thân, vợ chồng có riêng biệt, anh em có thứ bậc, bạn bè có tin cậy, ấy là năm điều luân lý quan trọng của người ta”4, chính là nói rõ quan điểm của Nho giáo về luân lý và đạo đức là như vậy. 234 Theo tác giả Minh Anh, “luân lý và đạo đức của Nho giáo bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con người, từ chính trị đến các vấn đề văn hóa - xã hội. Cũng giống như học thuyết chính trị, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo lấy đạo Nhân làm gốc. Bởi lẽ, nói đến cùng, Nhân tức là đạo làm người; chỉ có thực hiện đạo Nhân mới có thể khắc phục được thực trạng bề tôi giết vua, con giết cha, em giết anh, bạn bè lấn át nhau đang diễn ra như cơm bữa 2 Xem 3 Nguyễn Kim Sơn 2009, Tư tưởng luân lý mới của các nhà nho Duy tân trong Tân đính luân lý giáo khoa thư, Tạp chí Triết học, số 4 215, 4 Trần Văn Giàu 2003, Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, quyển 2, Nxb Khoa học xã hội, HỌC THUYẾT LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO... 62 trong xã hội”5. Chữ “Nhân” trong Nho giáo được xem là nguyên tắc đạo đức quan trọng, nó là yếu tố quy định bản tính con người thông qua “lễ”, “nghĩa”, và nó là sợi dây để ràng buộc các mối quan hệ giữa cá nhân với gia đình, gia tộc, và giữa cá nhân với xã hội. Tác giả Minh Anh cũng cho rằng, đạo đức và luân lý của Nho giáo “phản ánh năm mối quan hệ phổ biến trong xã hội loài người. Đó là các mối quan hệ Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bầu bạn kết giao. Để có thể xử lý tốt năm mối quan hệ đó, con người cần phải có năm cái đức thông thường - đó là Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Vì vậy, vấn đề luân lý, đạo đức của Nho giáo, về thực chất, cũng chính là vấn đề giải quyết năm mối quan hệ đó trong xã hội”6. Khi đề cập đến quan hệ vua tôi, đạo đức và luân lý Nho giáo đòi hỏi phải có sự ứng xử qua lại của cả hai bên. Trong Luận Ngữ, thiên 12 Nhan Uyên, câu thứ 11 “Tề Cảnh Công hỏi Khổng Tử về chính trị, Khổng Tử đáp - Quân quân, thần thần phụ phụ tử tử. Cảnh Công nói - Đúng thay! Ví như vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con, tuy có lúa gạo ta yên tâm mà ăn được sao?”7. Như vậy, Khổng Tử nhấn mạnh tới sự chính danh, chính đáng trong ứng xử của mỗi người trong một mối quan hệ Vua làm đúng việc ông vua; tôi làm đúng việc bầy tôi; cha làm đúng việc của cha; con làm đúng việc của con. Nghĩa là vua, tôi, cha, con đều phải tuân thủ những quy định của chức phận, địa vị của mình trong mối quan hệ đó thì mới là làm trọn đạo. “Như Vua Ai công nước Lỗ hỏi Khổng Tử rằng Con theo mệnh cha có phải là hiếu không? Tôi theo mệnh vua có phải là trung không?... Khổng Tử cho rằng, cha có tránh tử, thì không hãm vào điều vô lễ; kẻ sĩ có tránh hữu, thì không làm điều bất nghĩa. Cho nên con theo mệnh cha há đã là hiếu, tôi theo mệnh vua há đã là trung. Chỉ có biết xét cái đáng theo mà theo, mới gọi là hiếu, là trung vậy” Khổng Tử gia ngữ Tam thứ, IX8. 5678 Quan điểm trên của Khổng Tử cho thấy, đạo đức và luân lý của Nho giáo tiên Tần là quan hệ hai chiều, và không phải là quan điểm cực đoan như quan điểm của Nho giáo hậu kỳ, nhất là từ thời Tống về sau, chỉ đề cao đức trung, hiếu, trinh theo một chiều, ví dụ như “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Điều này càng được khẳng định khi Khổng Tử đã bỏ vua nước Lỗ để đến nước Tề. Theo Khổng Tử thì nghĩa quân thần đều có định phận rõ ràng, chẳng hạn, khi Vua Định công nước Lỗ hỏi Khổng Tử rằng “Quân sử thần, thần sự quân, như chi hà?” Vua khiến bề tôi, bề tôi thờ vua, phải thế nào? Khổng Tử đáp rằng “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” Vua lấy lễ mà đãi bề tôi, bề tôi lấy trung mà thờ vua” Luận ngữ Bát dật 9. 5 Minh Anh 2004, Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, Tạp chí Triết học, số 8 159, 6 Minh Anh 2004, Sđd., 7 Hồ Thích 2004, Trung Quốc triết học sử đại cương, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 8 Trần Trọng Kim 2012, Nho giáo, Nxb Thời đại, 9 Tứ thư 2011, Quốc Trung - Nguyễn Văn Huân dịch, Nxb Thời đại, LÂM BÁ HÒA 63Như vậy, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo khi đề cập đến mối quan hệ giữa vua - tôi thì vấn đề cốt yếu nằm ở đức trung - nghĩa, mối quan hệ giữa cha - con cốt yếu nằm ở đức từ - hiếu. Điều này được thể hiện rõ trong quan điểm của Khổng Tử về hiếu đễ “Lập ái tự thân thỉ, giáo dân mục dã. Lập kính tự trưởng thỉ, giáo dân thuận dã. Giáo dĩ từ mục, nhi dân quý hữu thân; giáo dĩ kính trưởng, nhi dân quý dụng mệnh. Hiếu dĩ sự thân, thuận dĩ thính mệnh, thố chư thiên hạ vô sở bất hành” dựng lòng ái khởi đầu từ cha mẹ, là dạy dân hòa mục vậy. Dựng lòng kính khởi đầu từ người huynh trưởng, là dạy dân kính thuận vậy. Lấy từ mục mà dạy dân, thì dân biết quý có cha mẹ; lấy kính người huynh trưởng mà dạy dân, thì dân biết quý sự theo mệnh lệnh người trên. Hiếu là để thờ cha mẹ, thuận là để vâng mệnh người trên, đem những điều ấy mà thi thố ra thiên hạ, thì không có điều gì là không làm được” Lễ ký Tế nghĩa, XXIV10. Cùng quan điểm nêu trên, Trần Trọng Kim viết “Khi cha mẹ làm điều gì trái đạo thì con phải dùng cách ôn hòa mà can ngăn. Nếu cha mẹ không nghe, thì lại tỏ lòng cung kính và hiếu thảo, rồi dần dần lựa cách nói cho cha mẹ biết lẽ phải mà sửa đổi lại. Dẫu có khi cha mẹ giận mà đánh đập hay bắt phải chịu khổ sở, cũng không oán. Việc giữ cái danh tiết của cha mẹ được trong sạch là bổn phận người con hiểu đạo hiếu vậy”11. Theo quan điểm của Nho giáo thì đạo hiếu là ở chỗ, không phải cha làm thế nào cũng phải theo. Có khi cha làm điều gì trái lẽ, thì phải hết sức can ngăn, để cho cha khỏi bị những điều lầm lỗi. Nhưng chỉ cốt phải theo lễ mà can ngăn. Hiếu có hợp lễ mới thật là hiếu. Vì vậy, nói đến đạo đức và luân lý Nho gia truyền thống chúng ta không thể không đề cập đến vai trò của phạm trù hiếu. Đánh giá về giá trị của đạo “hiếu” trong học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, Tôn Trung Sơn cho rằng “So với các dân tộc khác, quan niệm về hiếu của dân tộc ta đã tiến bộ hơn họ rất xa... Bởi vậy, chỉ nói đối với vấn đề hiếu, mặc dù là những nước vǎn minh nhất trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào mà người dân của họ có được một khái niệm hoàn toàn giống như đồng bào ta. Như vậy vấn đề hiếu càng không thể không cần và càng phải bảo tồn”12. 101112 Đạo vợ - chồng là một nội dung luân lý căn bản trong Nho giáo. Mạnh Tử cho rằng “phu phụ hữu biệt”, điều này có nghĩa vợ chồng có sự khác biệt, chúng ta thấy ở đây không hề có quan hệ một chiều hoặc tuyệt đối hóa vai trò của người chồng trong gia đình hoặc với người vợ. Với quan điểm này của Nho giáo, chúng tôi cho rằng, luân lý và đạo đức của Nho giáo thời Khổng - Mạnh không hề tuyệt đối hóa vai trò của người chồng theo kiểu “phu xướng phụ tùy” hoặc “chồng xướng vợ theo” hoặc “chồng chúa vợ tôi” như Nho giáo hậu kỳ. Ngược lại, với quan điểm “phu phụ hữu biệt”, Nho giáo đã đề cao sự hòa hợp theo lẽ tự nhiên của quan hệ chồng - vợ mà ở đó luôn có sự hài hòa theo thiên tính của mỗi 10 Trần Trọng Kim 2012, Sđd., 11 Trần Trọng Kim 2012, Sđd., 12 Vũ Khiêu 1995, chủ biên Nho giáo và gia đình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, HỌC THUYẾT LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO... 64 người trong hôn nhân và xã hội. Rằng, khi người chồng có phẩm cách cao thượng, theo lẽ tự nhiên, người vợ sẽ luôn dành sự tôn trọng và thuận theo anh ta. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn, nhà nho coi quan hệ phu thê, phụ tử là hai mối quan hệ trọng yếu nhất cần củng cố trong gia đình, bởi gia đình “là gốc của nước, là tế bào của xã hội, gia có trị thì nước mới yên”. Ông phân tích “Trong quan hệ phu - thê, chồng chính lễ nghi, vợ kính thuận. Tinh thần chung nhất của luân lý gia đình vẫn là hướng tới sự hoà thuận…”13. Như vậy, theo luân lý và đạo đức của Nho giáo thì đạo nghĩa chồng vợ trong gia đình tuy có sự khác biệt, nhưng khi người chồng chính trực cao thượng, bảo vệ người vợ, người vợ nhã nhặn khiêm hòa, sinh thành giáo dưỡng con trẻ, mỗi người làm tốt bổn phận của mình, thì gia đình tự nhiên được hòa thuận. Đây cũng chính luân thường đạo lý, là “nếp nhà” đã ăn sâu vào tâm thức có sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa của nhiều quốc gia ở phương Đông, trong đó có văn hóa Việt Nam. Khi đề cập đến mối quan hệ anh - em, Mạnh Tử cho rằng “Trung dã dưỡng bất trung, tài dã dưỡng bất tài; cố nhơn lạc hữu hiền phụ huynh dã. Như trung dã khí bất trung, tài dã khí bất tài, tắc hiền bất tiếu chi tương khú, kỳ gian bất năng dĩ tốn?” Người có hành vi đạo đức tốt thì phải giáo dục, hun đúc những người không có hành vi đạo đức tốt, người có tài năng thì phải giáo dục những người không có tài năng, nên mọi người đều vui vì có được những người cha người anh giỏi giang. Nếu người có hành vi đạo đức tốt mà bỏ mặc người khác, người có tài bỏ mặc người không có tài, thì khoảng cách giữa họ sẽ rất lớn” Mạnh Tử Ly Lâu, Phần II14. Điều này cho thấy, đã là anh em trong một nhà thì phải có tình thương yêu, phải biết nhường nhịn lẫn nhau, phải biết che chở và kính trọng lẫn nhau. Theo luân lý và đạo đức của Nho giáo thì anh em trong một gia đình phải luôn có trên, có dưới, phải thuận hoà sau trước và phải tôn trọng trật tự, tôn ty về quyền huynh thế phụ. Có thể nói, quan hệ anh - em trong luân lý và đạo đức của Nho giáo cũng tựa như quan hệ cha - con. Bởi vậy, anh, chị là người thay cha, mẹ nuôi dạy các em trong gia đình khi cha mẹ mất. Không chỉ vậy, với quan điểm “trưởng ấu hữu tự” - anh nói em nghe, thì em phải luôn vâng lời anh, chị, nghe theo lời chỉ bảo của anh, chị, chỉ có thế gia đình mới hòa thuận trong ấm, ngoài êm. 1314 Khi đề cập đến quan hệ bằng hữu, luân lý và đạo đức của Nha giáo cũng đưa ra những quan điểm hết sức tiến bộ. Chẳng hạn, khi Vạn Chương hỏi Mạnh Tử rằng “Xin hỏi làm thế nào để kết bạn”. Mạnh Tử nói “Không ỷ vào tuổi tác lớn, không ỷ vào địa vị cao, không ỷ vào sự phú quý của anh em để kết bạn. Cái gọi là kết bạn, là kết bạn với người có cùng phẩm chất đạo đức mà không cần ỷ vào điều gì cả” Mạnh Tử Vạn Chương, Phần 13 Nguyễn Kim Sơn 2009, Tư tưởng luân lý mới của các nhà nho Duy tân trong Tân đính luân lý giáo khoa thư, Tạp chí Triết học, số 4 215, 14 Tứ thư 2011, Quốc Trung - Nguyễn Văn Huân dịch, Nxb Thời đại, LÂM BÁ HÒA 65II15, và lấy chữ tín làm chuẩn mực trong các mối quan hệ bằng hữu - “bằng hữu hữu tín”. Với chữ tín trong luân lý và đạo đức của Nho giáo đã giúp bạn bè vượt qua khó khăn, thử thách của cuộc sống, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, để vượt qua hoạn nạn. Như vậy, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo phản ánh năm mối quan hệ cơ bản của con người trong đời sống gia đình, xã hội và quốc gia, “nhưng về thực chất và suy đến cùng, nó chỉ phản ánh hai mối quan hệ. Đó là mối quan hệ trong gia đình bao gồm các mối quan hệ cha - con; vợ - chồng; anh - em và mối quan hệ ngoài xã hội bao gồm các mối quan hệ vua - tôi; bạn bè. Trong gia đình thì mối quan hệ cha - con là lớn nhất và nó được thể hiện bằng đạo hiếu. Song đạo hiếu lại chính là nguyên tắc cơ bản của chế độ tông pháp, chế độ gia trưởng. Trong xã hội thì mối quan hệ vua - tôi là quan trọng nhất và nó được thể hiện bằng đạo trung. Trung là nguyên tắc cơ bản của chế độ chính trị đẳng cấp. Vì thế, có thể nói, về thực chất, học thuyết luân lý và đạo đức xã hội của Nho giáo chính là sự thể hiện của đường lối chính trị phong kiến đẳng cấp và gia trưởng”16. 3. Ảnh hưởng cùa học thuyết luân lý và đạo đức Nho giáo trong văn hóa Việt Nam Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ đầu Công nguyên và trải qua rất nhiều thăng trầm cùng lịch sử phát triển của dân tộc. Học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam, cho dù có những giai đoạn “sùng Phật ức Nho” hay “Nho, Phật, Lão tịnh tôn”. Có thể khẳng định, trong lịch sử Việt Nam, xét ở góc độ không gian văn hóa và giao lưu tiếp biến văn hóa, Nho giáo đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều giai đoạn lịch sử phát triển của chế độ phong kiến, đồng thời hòa quyện cùng dòng chảy phát triển của văn hóa dân tộc, từ đó nó góp phần xây dựng nên trụ cột về văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, trong đó có luân lý, đạo đức. 15 Lịch sử phát triển của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã cho thấy, giai cấp phong kiến ở nước ta không chỉ thượng tôn Nho giáo với mục đích xây dựng đất nước, điều quan trọng là Nho giáo đã góp phần đắc lực cho giai cấp cầm quyền dễ dàng cai trị nhân dân. Với đặc điểm là một xã hội mang dấu ấn đậm nét của chế độ gia trưởng phụ quyền, nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã được tiếp thêm sức mạnh về uy quyền khi lấy tư tưởng luân lý - đạo đức Nho giáo về tam cương, ngũ thường làm nền móng để xây dựng các chuẩn mực, kỷ cương cho triều đình. Đồng thời, thiết lập và duy trì một trật tự xã hội đẳng cấp tứ dân, trong đó luân lý và đạo đức được xem là công cụ để giáo hóa muôn dân, để giáo dục và tuyển chọn nhân tài, để củng cố và tăng cường chế độ tập quyền của chính quyền phong kiến ở trung ương. 16 Minh chứng rõ nét cho điều này là năm 1462, vua Lê Thánh Tông đã cho ban 15 Tứ thư 2011, Quốc Trung - Nguyễn Văn Huân dịch, Sđd., 16 Minh Anh 2004, Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, Tạp chí Triết học, số 8 159, HỌC THUYẾT LUÂN LÝ VÀ ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO... 66 bố Huấn dân đại cáo nhằm đưa tới tận các phủ huyện trong cả nước. Năm 1483, trên cơ sở học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo, Hồng đức hình luật được xây dựng và ban hành nhằm xác định các quan hệ tôn ty, đẳng cấp trong gia đình, làng xã đến toàn xã hội. Đại Việt sử ký toàn thư đã chép rõ điều này “Mùa thu tháng 7, nhắc rõ lại 44 điều giáo hóa, đại lược rằng làm tôi hết lòng trung; làm con giữ đạo hiếu; anh em hòa thuận nhau; vợ chồng kính yêu nhau; bạn bè tin nhau để giúp nhau làm điều nhân; cha mẹ sửa mình để dạy con; thầy trò lấy đạo đãi nhau; người gia trưởng lấy lễ mà dạy người; con em cung kính phụ huynh, Cùng với sự thâm nhập ngày càng sâu rộng vào kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp luật, giáo hóa, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo cũng dần thấm đậm vào đời sống văn hóa tinh thần của người dân với nền tảng là gia tộc, làng xã - tổ chức cơ sở của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Với sự hình thành và phát triển của văn hóa làng xã mà ở đó đình làng được xem là trung tâm của hoạt động văn hóa, nơi Nho học và các nho sĩ luôn được cộng đồng tôn kính, trọng vọng, đã chứng minh cho sức ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam. Từ thực tiễn lịch sử của chế độ phong kiến ở Việt Nam, nhiều người cho rằng, Nho giáo đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến giai cấp thống trị phong kiến ở nước ta qua nhiều triều đại. Chính giai cấp thống trị phong kiến Việt Nam đã lợi dụng việc coi trọng giáo dục đạo đức, luân lý và tu dưỡng bản thân, nhấn mạnh việc dùng tam cương, ngũ luân, đạo đức, luân lý trung, hiếu, tiết nghĩa, của Nho giáo để giáo hóa dân chúng, đồng thời tăng cường tu dưỡng, chuẩn mực hành vi nhằm điều tiết các quan hệ xã hội, gia đình và con người, tăng cường sức tập trung của xã hội, khiến cho nhà nước và xã hội luôn giữ được an ninh và trật tự. Đồng thời, quá trình này cũng làm phân hóa sâu sắc chủ thể văn hóa thành hai bộ phận, một bên là tầng lớp nho sĩ, quan lại lấy học thuyết luân lý và đạo đức Nho giáo làm hình mẫu với một bên là các giai tầng như nông dân, thợ thủ công vẫn duy trì những giá trị luân lý, đạo đức bình dân của giai tầng mình và là đối tượng giáo hóa của tầng lớp phong kiến. 17 Với quan điểm “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, và với nền tảng là gia đình, đơn vị sản xuất, đơn vị đời sống chủ yếu của xã hội phong kiến Việt Nam, thì việc muốn duy trì được sự ổn định chính trị xã hội cho nhà nước phong kiến, trước hết phải giữ được sự ổn định chế độ gia đình phong kiến hoặc chế độ gia trưởng mà đơn vị là gia đình. Vì thế, giai cấp thống trị phong kiến Việt Nam rất coi trọng việc tăng cường giáo hóa gia đình trên cơ sở ý thức hệ của Nho giáo được truyền bá rộng rãi trong nhân dân, khiến cho quan niệm luân lý và đạo đức của Nho gia như trung, hiếu, tiết nghĩa, tam cương, ngũ luân, nhà nhà đều thông tỏ. Là một quốc gia đa tôn giáo, nhưng các tôn giáo khác khi du nhập vào Việt Nam, 17 Ngô Sĩ Liên 2009, Đại Việt Sử ký toàn thư trọn bộ, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, LÂM BÁ HÒA 67có thể trước hoặc sau Nho giáo nhưng đều có thể chung sống dung hợp được với học thuyết này. Không chỉ vậy, một số tôn giáo còn đưa những tư tưởng quan trọng trong Nho giáo dung hợp vào giáo lý của mình. Trong sự dung hòa giữa văn hóa tôn giáo và văn hóa thế tục, nổi bật nhất phải kể đến sự dung hợp của tam giáo Nho - Phật - Lão và có ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa Việt Nam qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Mặc dù trải qua rất nhiều thăng trầm và biến thiên của lịch sử phát triển như “sùng Phật ức Nho”, “tam giáo đối lập” rồi đến “tam giáo đồng nguyên” hay “tam giáo tịnh tồn” hoặc “độc tôn Nho thuật”, và chỉ được Việt hóa phần nào, nhưng Nho giáo đã ngày càng ảnh hưởng sâu rộng tới văn hóa Việt Nam, để từ đó góp phần hình thành nền văn hóa mang đậm dấu ấn riêng của Việt Nam. Là một trong những học thuyết triết học có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong nhiều giai đoạn lịch sử, trong đó có truyền thống khoa bảng, Nho giáo đã trở thành học thuyết chủ đạo về luân thường, và trở thành nền tảng tư tưởng chính trị chủ đạo trong nhiều triều đại phong kiến ở nước ta. Học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo đã giúp triều đình phong kiến điều chỉnh kỷ cương, chấn hưng triều chính, duy trì và củng cố nền thống trị phong kiến Việt Nam, đồng thời thúc đẩy sự phát triển trên các phương diện chính trị, kinh tế và nhất là văn hóa, đặc biệt là các triều đại Hậu Lê 1428 - 1527 và nhà Nguyễn 1802 - 1945. Tuy nhiên, Nho giáo cũng tạo nên sự phân hóa văn hóa sâu sắc trong xã hội Việt Nam, phân hóa chủ thể văn hóa dân tộc thành hai bộ phận đối lập với nhau giữa một bên là các nho sĩ, quan lại quý tộc theo hình mẫu của Nho giáo và một bên là các giai cấp, tầng lớp, giai cấp khác của xã hội, như nông dân, thương nhân, thợ thủ công - những người luôn cảm thấy bị “nô dịch”, trói buộc bởi những tôn ty, giáo lý và luật lệ Nho giáo khắt khe của chính quyền. Tóm lại, luân lý và đạo đức luôn là một chủ đề lớn của triết học thế giới qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Đây cũng được xem là chủ đề chủ đạo của Nho giáo, đặt nền tảng vững chắc giúp cho Nho giáo lan tỏa sức ảnh hưởng sâu rộng đến văn hóa, tư tưởng, lối sống của nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng của học thuyết này, trong đó có Việt Nam truyền thống và hiện tại. Với các mối quan hệ chủ đạo là Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em và bằng hữu được xác lập theo các khuôn mẫu của “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo đã có những ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Là một dân tộc mang đặc tính hòa hiếu và khoan dung, người Việt Nam hoàn toàn có thể nhìn nhận Nho giáo một cách tích cực, đồng thời sử dụng những tinh hoa của Nho giáo những giá trị tích cực đã trở thành các giá trị tinh thần của nhân loại để bồi đắp, sáng tạo những giá trị mới và phát huy những giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập sâu rộng với văn hóa và văn minh nhân loại. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this has not been able to resolve any references for this publication.
triết học đạo đức