BỘ Y TẾ. V/v Hướng dẫn tổ chức tiếp nhận, chẩn đoán, điều trị và quản lý người bệnh viêm đường hô hấp cấp tính do nCoV. - Y tế ngành. Thực hiện Quyết định số 237/QĐ-BYT ngày 31/01/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế, về việc ban hành Kế hoạch đáp ứng với từng cấp
Bộ Y tế cho biết, đến nay, cả nước đã ghi nhận hơn 190.000 ca mắc sốt xuất huyết, 72 người tử vong. So với cùng kỳ năm 2021, số mắc tăng 4 lần, tử vong tăng 53 trường hợp. Số liệu tổng hợp từ các địa phương cho thấy, trong tuần 35 (29-8 đến 4-9), cả nước ghi nhận 9.186 trường hợp mắc sốt xuất huyết.
Nghi thức Trai đàn chẩn tế siêu độ hay bạt độ. Theo tác giả Đức Hạnh (trong bài Mông Sơn thí thực) thì nghi thức Trai đàn chẩn tế ra đời là do các vị đạo sư chân tu Trung Hoa và Việt Nam (Huế - Bình Định) soạn dựa trên cơ sở tư tưởng cứu bạt của kinh Diệm Khẩu
Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây. Về hình thức, trai đàn nầy dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo
Thuận tiện: Bệnh nhân ở bất cứ đâu trên mọi miền Tổ quốc (đặc biệt vùng sâu, vùng xa, cách xa trung tâm) đều có thể sử dụng dịch vụ chẩn đoán chất lượng cao ở mọi lúc, mọi nơi. Quy trình số hóa được áp dụng triệt để trong việc trả kết quả khi bệnh nhân chỉ cần một mã QR Code hoặc một đường link là có thể truy cập để nhận kết quả.
Thời gian qua, nhiều người dân trên địa bàn huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương và các vùng lân cận rỉ tai nhau về việc cấp giấy khám sức khỏe "nhanh gọn" tại Trung tâm Y tế huyện Nam Sách. Sáng 11/11, PV Báo Giao thông đã có mặt tại đây để xác thực sự việc bất
WR8lWov. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm . Ý nghĩa trai đàn chẩn tế Trước nhất chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa trai đàn chân tế? Trai đàn là lễ hội cúng chay, chẩn tế là thí, cấp phát, phát chẩn gạo, thức ăn... giúp người đói. Trong đạo Phật, lập đàn chẩn tế là một nghi thức cúng, để bố thí thức ăn cho cô hồn. Trai đàn chẩn tế còn là lễ hội “làm chay” bố thí cấp phát lương thực giúp cho người qua cơn bức ngặt đói khát, không còn thiếu thốn, ban phát thí thực cho cô hồn hưởng thọ, được no. Trai đàn chẩn tế còn gọi là “trai đàn thủy lục” là một pháp hội cúng chay và cầu siêu cho những vong hồn người chết không có ai thờ tự, không có nơi nương tựa, đang sống vất vưỡng ở dưới nước và ở trên cạn. Trai đàn chẩn tế còn gọi là trai đàn bạt độ. “Bạt” có nghĩa là nhổ lên, nhổ tận gốc rễ phiền não tham sân si, làm cho thế giới nhẹ nhàng thanh thản. “Độ” có nghĩa là vượt qua, thoát khỏi những chướng duyên mê si tăm tối, những sự việc xảy ra rắc rối hàng ngày, hằng giờ, hằng tâm niệm. Nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi, đấy là mục đích chính của đạo Phật.. Giáo lý Phật dạy thì nhiều, gồm tam tạng thánh điển, như nấc thang từ thấp lên cao, từ giáo lý dạy cho Cư sĩ cho đến giáo lý dạy cho hàng xuất gia, từ tiểu thừa lên đại thừa, những giáo lý cao siêu đó, cuối cùng được đúc kết "chỉ có một vị duy nhất là vị ly tham, vị giải thoát trần tục, xả bỏ vị kỷ, ích kỷ cá nhân mà sống chua, chia sẻ cùng cộng đồng...” Các bậc Tổ sư xưa, trong đó có các bậc Thiền sư tu đắc đạo, các bậc Đại sư dạy tu niệm Phật, các bậc Pháp sư dạy niệm chú. Việc chủ yếu của ba nhà Phật học nầy là chế tác đấy đủ pháp môn tu, trong đó có tự lực và tha lực và cuối cùng Ngài Bất Động pháp sư. Ngài tu ở núi Mông Sơn, thời nhà Tống hoằng truyền phối hợp tự lực và tha lực gom thành một mối thành bài kinh gọi là Mông Sơn Thí Thực. Trong bài Mông Sơn có dạy niệm Kinh, niệm Phật, niệm chú, tạo thành một uy lực dũng mãnh đánh tan những tham sân si, những nghiệp lực của chúng sanh vạn lọai. Trai đàn chẩn tế thời xưa Theo Ngài Đạo An 314-385, danh Tăng thế kỷ thứ IV thời Đông Tấn, hiện nay thuộc tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc thì tập tục cúng chẩn tế cho người chết không phải là tập tục của Phật giáo. Chỉ đến thế kỷ thứ VI, vua Lương Võ Đế 464–549 mộng thấy một vị Thần Tăng bảo rằng “Bốn loại quần linh trong sáu đường bị khổ vô lượng, sao chẳng lập đàn Thuỷ lục mà phổ tế. Trong các công đức, đó chính là công đức lớn vậy.” Vua Lương Vũ Đế hỏi các sa môn, thảy đều không biết, riêng ngài Chí Công khuyên vua rộng tìm kinh luận ắt có nhân duyên. Vua bèn sưu tầm kinh bối diệp để ở điện Pháp Vân, sớm tối giở đọc. Y theo việc ngài A Nan gặp Diện Nhiên quỷ vương, vua thiết lập ý nghĩa bình đẳng hộc thực, chế tác nghi văn, ba năm mới xong, rồi cử hành Thủy lục trai đàn ở chùa Kim Sơn, thuộc Trấn Giang, Giang Tô, Trung Quốc ngày nay Thời đại nhà Đường 618 - 907, đến nhà Tống 960-1279 bên Trung Hoa, mỗi đàn có một hay nhiều trai chủ đóng góp, cùng chung thực hiện. Tại Việt Nam, sách Phật “Thiền uyển tập anh” Tăng thống Huệ Sinh -1064 đời vua Lý Thánh Tông 1023 – 1072, có để lại tác phẩm “Pháp Sự Trai Nghi” nói đến nghi thức chẩn tế. Đến thế kỷ thứ XVIII sau khi chiến thắng quân Thanh vua Quang Trung 1753 – 1792, vua Gia Long 8/2/1762 - 3/2/1820 sau khi thống nhất sơn hà, đổi tên nước là Việt Nam, lên ngôi đem triều đình và trăm họ gom về một mối. Nhà vua liền tổ chức trai đàn bạt độ “tạo cho không khí chết chóc, cảnh tàn sát lẫn nhau” sự điêu tàn “khí chết” không còn quây quần bên triều đình dòng họ Nguyễn Phúc sau thời chiến. Vào năm Giáp ngọ, Chúa Nguyễn Phúc Chu 1675-1725 cho tổ chức trai đàn tại chùa Linh mụ cầu cho quốc thái dân an, cho các quân lính tử trận được siêu thoát. Và vào những năm đầu thập niên 70, do chiến tranh gây ra nhiều cảnh chết chóc hãi hùng, khoa nghi chẩn tế được thực hiện rất nhiều, nhất là tại Huế. Hầu như tháng nào ở đây cũng có ít nhất một đàn. Trai đàn tại các tự viện Năm 1961 Tân Sửu tại Tổ Đình Linh Sơn, núi Bồng Lai, Đức Tôn sư Thiện Phước - Nhựt Ý cũng tổ chức lễ cầu an cầu siêu, trai đàn bạt độ 7 ngày. Cầu nguyện anh linh chiến sĩ, anh linh liệt sĩ, các chư vị, chư thần, trăm quan thần cựu hy sinh vì đại nghĩa, các vong hồn yểu tử, kẻ chết sông người chết suối, tại nạn trên không, dưới biển. Lễ chẩn tế rất quy mô có cả tín đồ Phật tử tham dự ghi danh cầu nguyện, các đàn của các tự viện chùa Linh Sơn, Nhứt Nguyên bửu tự, chùa Phổ Hiền, chùa Phước Thiện An ở dưới thế cũng đăng sơn, rước các vong linh, thập lọai cô hồn câu hội nghe kinh, thọ hưởng phước lạc. Tháng 7 năm Nhâm Dần 1962 Linh Sơn cổ tự do Hòa thượng Thích Hồng Quang làm Trụ trì, gần chân núi Bồng Lai, hiện nay từ năm 2000 do Sư cô Thích nữ Hiếu Hạnh làm Trụ trì. Lúc bấy giờ Hòa thượng tổ chức trai đàn bạt độ cầu siêu thập lọai cô hồn có khoảng 800 người tham dự, lúc bấy giờ Sư cũng tham dự làm công quả chuyển lương thực cho chùa. Một cuộc thí thực bao giờ cũng tốn kém, Phật tử phải sắm sanh bánh nếp, bánh cấp, bánh cúng, bánh tét, bánh ngọt, các lọai giấy vãng sanh, giấy tiền, giấy vàng bạc, tất cá các lọai bánh ngọt được sắp xếp lên đến hàng chục nia, các lọai trái cây xẻ sẵn, muối gạo, tiền xu, tiền đồng, tiền bạc cắc, tiền giấy được đổi thành tiền nhỏ được đặt vào các nia trống, tất cả đều được sắp xếp đặt lên giàn dựng thật cao khoảng 12 mét. Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 7 năm đó, chư vị Pháp Sư, chư sơn thiền đức, chư Tăng đều lên trên giàn tác pháp, tụng kinh Mông sơn cho đến 15 giờ hồi hướng, đổ giàn. Dùng từ đổ giàn tức là xả lưỡi ông tiêu, thí các lọai bánh, tiền, trái cây đã cúng và được làm phép mở miệng cho các cô hồn ngạ quỷ đến nhận phần thọ thực, ăn uống. Người dương chủ yếu là trẻ em, thay mặt các gia đình người lớn đến xin lưỡi ông tiêu, xin bánh, nói là xin, chứ thật ra rất nhiều những hình ảnh chỉ là chụp giựt, ai giỏi thì lấy được nhiều, ai dở yếu hơn thì lấy được ít. Quan niệm của các vị là đem của thí nầy về nhà ăn sẽ hết bệnh, khỏi bị tà ma quấy nhiễu. Đây là truyền thống thí thực có từ thời nhà Đường, nhà Tống do chư Tăng bên Trung Hoa thực hiện. Truyền thống chẩn tế trai đàn bạt độ vẫn còn giữ truyền thống tại chân núi Bồng Lai, Tổ Đình Linh Sơn Bà Rịa Vũng Tàu, các nơi khác trong tông phong Tịnh Độ Non Bồng còn tác pháp như chùa Thiền Tịnh Dakao 1964, Long Sơn cổ tự Bình Dương, Quan Âm Tu Viện Đồng Nai, Nhứt Nguyên Bửu Tự Bình Dương, chùa Phước Thiện An Chí Minh, chùa Phước Ân Long An, chùa Phước An Gò Công, Tiền Giang hằng năm đều có cúng trai đàn bạt độ. Năm 1971, 1972 hai năm liền Đức Tôn sư tổ chức lễ trai đàn bạt độ cầu nguyện cho những người chết vì chiến tranh, mỗi lễ trai đàn tổ chức 7 ngày, mỗi ngày có khoảng lượt tín đồ Phật tử khắp nơi về tham dự, ghi danh cúng kiếng cầu nguyện chư vong linh. Cúng trai đàn chẩn tế có tâm vóc quy mô, quy tụ nhiều gia đình gọi là đại lễ. Cúng vong là nghi lễ các tự viện xưa cũng như nay cúng hàng ngày, hoặc ở gia đình có nhu cầu cúng kiếng, chỉ thỉnh một vị Thầy để chủ trì lễ cúng vong theo nghi thức Tiểu Mông Sơn. Cúng vong còn là nghi lễ cúng kiếng cầu siêu cho vong linh người thân vừa qua đời, cúng thất, tuần chung thất, cúng 100 ngày, cúng giáp năm, cúng mãn khó, cúng kỵ giỗ theo nghi thức cúng cửu huyền. Lợi ích trai đàn chẩn tế Cúng trai đàn chẩn tế xong các gia đình rất vui mừng vì đã làm được việc phước thí lớn lao. Việc tổ chức trai đàn có 2 ý nghĩa chánh Một là, giúp các gia đình Phật tử có dịp gặp nhau, làm việc phước thí theo tâm nguyện của ông bà, của gia đình. Việc cúng kiếngg đem lại lợi ích, đoàn kết hòa hợp trong các giới Phật tử, tuy là Phật tử nhưng ít gặp nhau, nay được gặp lại trong lễ cúng trai đàn làm việc bố thí, sinh khí đạo đức sanh khởi, mọi gia đình an vui, an cư lạc nghiệp. Hai là tạo cho tâm Phật tử ngày càng được rộng lòng từ, biết thương yêu muôn loài vạn vật, muốn thấy nó sống, không muôn thấy nó chết. Việc trai đàn bạt độ, giúp cho Phật tử mở rộng tầm nhìn ngòai thế giới chúng ta đang ở còn có rất nhiều thế giới khác, thế giới vô hình, hai hình, có chân, không chân, nhiều chân, những chúng sanh khổ đau rất cần đến chúng ta. Người Phật tử tập lần xả bỏ những vị kỷ, những ích kỷ cá nhân, những pháp bất thiện như ích kỷ, cá nhân, hung bạo, dữ dằn lần lượt sẽ không còn, mọi người thương yêu nhau tạo cho tình nghĩa xóm làng được nhân rộng, hận thù tiêu tan, sự an lành luôn xuất hiện như trong thế giới nhà Phật. Ba là, Đạo Phật tiếp nhận Phật sự trai đàn chẩn tế từ các vua chú thời nhà Đường, nhà Tống, đem đạo vào đời, gần gũi quần chúng, đạo đức tăng trưởng, giúp cho mọi người gần gũi nhau hơn, xóm làng an cư lạc nghiệp. II. Người tu không ăn đồ cúng vong, cúng cửu huyền? Nói chung là “người con Phật”, đây là sự tín ngưỡng có phần sâu sắc "mọi người đều nghĩ có người bên kia thế giới, có cuộc sống bên kia thế giới, nên khi cúng kiếng cho chư vị bên đó, người cúng nghĩ rằng mọi người bên kia thế giới đã “hưởng rồi”, trong dương gian thường nói là “hưởng mùi vị”, hay “hưởng hơi”, xúc thực. Do đó còn gì để mọi người bên đây ăn uống, nên nói không ăn là vậy. Đứng về mặt đạo đức, người “dương thế”, mắt thịt phàm phu không ăn đồ cúng vì thức ăn đó không phải dành cho người “dương thế”, mà dành cho người bên kia thế giới được cúng. Đây cũng là một trong các lễ của nghi lễ cúng kiếng. Nói thế thôi, chứ trong nhà của mỗi người Việt Nam nhà nào cũng có làm lễ giỗ, kỷ niệm những người đã khuất, gọi là cửu huyền thất tổ, những người được cúng giỗ đều được thờ chung với bàn thờ cửu huyền. Người Việt rất quan trọng lễ kỵ giỗ, thường là làm trâu, bò, làm heo, nhiều gà vịt để sau khi cúng ông bà xong, đãi bà con, xóm giềng. Làm gì thì làm, ngày cúng giỗ ông bà, mọi người không sợ tốn hao tiền của, nghĩa là gia chủ sẽ đem hết tấm lòng tốt của mình mà đãi khách, cho đến buổi chiều thức ăn không còn, gia quyến phải ăn thịt “xà bần”, tức là đồ ăn dư cũng không sao. Chư Tăng Ni không thọ dụng đồ cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do chư Tăng Ni thuộc bậc thọ Thiên Nhơn cúng, bậc Ứng cúng, tức là người được cung cấp dưỡng nuôi, cúng dường. Muốn dâng cúng chư Tăng Ni người cúng hết sức cung kính mà lễ bái dâng cúng dường phẩm vật, thức ăn. Do vậy đồ cúng vong, cúng cửu huyền rồi không bao giờ đem dâng cho chư Tăng Ni, đó là do lòng thành kính bổn phận, có truyền thống lâu đời của Phật tử, nên có câu Tín chủ cúng dường Phật Pháp Tăng Chứng minh công đức nhờ Tam bảo Chú tâm nguyện độ thiện duyên nầy Tín chủ đời đời thêm phước báo. Sở cầu sở ỳ đều thành tựu Tín nhớ hạnh y nguyện trở về Nay mới gieo nhơn nhơn chánh giác Sau nầy chứng quả quả bồ đề. Bài học Khất sĩ Tại các chùa hằng ngày đều có lễ cúng vong, một là cúng thí thực, nhà Sư tụng Tiểu Mông Sơn thí gạo muối, nước sau thời công phu chiều thí muối gạo, nước trước chánh điện, hai là cúng vong những vị mới qua đời nơi nhà cửu huyền. Tất cả những thức ăn cúng tại nhà cửu huyền, mỗi món một ít, sau khi cúng xong, do thời gian cúng lâu quá, thức ăn nguội lạnh, nên đem hấp lại cho nóng và đơm thêm thức ăn mới vào, dành đãi cho tín đồ Phật tử và mọi người cùng ăn rất quý và trọng thị. Riêng chư Tăng hoặc chư Ni khi thọ thực, bắt buộc phải cúng quả đường dâng cúng lên Phật và cập Tăng, thọ thực tại trai đường, do đó chư Tăng Ni không bao giờ gặp thức ăn cúng vong, cúng cửu huyền. Lý do không ăn đồ cúng là vậy. Do nền nếp sinh họat của giáo đoàn và các tự viện, tịnh xá như trên, nên không có câu nói "người xuất gia không ăn đồ cúng.” Chúng ta cũng không nên gán ghép cho người xuất gia thành ngữ “chư Tăng Ni không ăn đồ cúng”, một câu nói có thể làm mất tinh thần lục hòa, chưa thật sự tôn kính chư tôn đức Tăng già và giáo đoàn của Phật. Thành kính là phước báo Quên mình là cội phước Cầu xin cho tín chủ Mau đắc quả thanh tịnh
Cách làm tương ớt xào hay còn gọi là sa tế miền trung sao cho chuẩn hương vị miền Trung sẽ được Món Miền Trung chia sẻ qua bài viết sau đây. Tương ớt xào có hương vị cay nồng, đậm đà, thường được dùng để ăn kèm với nhiều món ăn như hủ tiếu, bún bò, cơm chiên, bánh tráng, bún chả cá, miến gà,…Công thức làm tương ớt xào không khó, nguyên liệu lại dễ tìm. Vậy bạn còn chần chờ gì nữa mà không vào bếp để trổ tài ngay. Xem thêm Bánh xèo6 món ngon tại quảng namCách làm bánh bột lọc Cách làm sa tế miền TrungCách làm sa tế ăn bún bòCách làm sa tế tỏi ớtHọc làm sa tế ớt 1. Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Bình Định ngon nhất Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Bình Định ngon nhất Nguyên liệu chế biến tương ớt xào Bình Định Cách làm món tương ớt xào Bình Định khá nổi tiếng và được người dân của nhiều vùng, miền khác yêu thích bởi hương vị đậm đà và thơm cay. Để thực hiện tương ớt rim Bình Định, bạn cần chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu sau Ớt tráiCà chuaỚt khôHànhTỏiGia vị Dầu ăn, đường, giấm, muối, rượu… Bạn ơi, cho mình quảng cáo 1 tí nhé! Hiện tại Cửa hàng Món Miền Trung có bán Dừa Sấy Giòn giá tốt nhất thị trường. Có cơ hội hãy ủng hộ mình nhé! Mua ngay Cách làm tương ớt xào Bình Định Bước 1 Sơ chế và luộc ớt Khi mua ớt, bạn nên chọn những quả chín đỏ tươi. Sau khi mua về, bạn đem ớt đi rửa sạch, bỏ cuống rồi vớt ra rổ để ráo nước. Tiếp đến, bạn xẻ dọc ớt ra và bỏ hết hạt ớt vào nồi nước sôi luộc khoảng vài phút, thêm vào nồi chút rượu để ớt giữ được màu đỏ tươi lâu hơn. Khi ớt chín mềm, bạn vớt ớt ra để nguội và giữ lại phần nước luộc ớt nhé. Bước 2 Cách xay nguyên liệu và xào tương ớt Đem hành tỏi đi bóc vỏ, cho cà chua đã rửa sạch cùng ớt luộc vào máy xay, sau đó, tiến hành xay nhuyễn. Trong khi xay, bạn lần lượt cho thêm nước luộc ớt và giấm vào xay cùng tỏi băm nhỏ rồi cho vào chảo dầu phi thơm, đảo đều, cho đến khi hành tỏi săn lại thì nêm vào ít muối, đường và hạt nêm. Sau cùng, bạn đổ hỗn hợp ớt đã xay nhuyễn vào chảo và vặn lửa lớn. Bạn đun đến khi hỗn hợp rút bớt nước thì nêm lại gia vị cho vừa ăn rồi tắt bếp. Đợi tương ớt nguội bạn cho vào lọ thủy tinh để bảo quản nhé. Bạn có thể cho thêm chút dầu ăn vào tương ớt để giữ được lâu hơn. 2. Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Đà Nẵng chua ngọt Hướng dẫn cách làm tương ớt xào Đà Nẵng chua ngọt Nguyên liệu chế biến Tương ớt Đà Nẵng có vị cay thanh của ớt tươi, vị chua nhẹ của cà và vị ngọt thanh của đường cát. Cách làm tương ớt xào Đà Nẵng cũng rất đơn giản, trước hết bạn hãy chuẩn bị các nguyên liệu sau 500 gram ớt quả cay4 quả cà chuaHành, tỏi100 gram đường, bột nêm20 gram muối Chuẩn bị ớt cay để làm tương ớt xào Đà Nẵng. Ảnh Internet. Cách làm tương ớt xào Đà Nẵng Bước 1 Sơ chế ớt và cà chua Bước đầu tiên trong cách làm tương ớt xào Đà Nẵng là sơ chế nguyên liệu, bạn đem ớt đi rửa sạch, bỏ cuống, chẻ dọc rồi bỏ hết hạt ớt. Cho ớt vào nồi luộc chín mềm để giảm bớt độ xong, bạn vớt ớt ra để nguội rồi băm nhỏ. Hành tỏi bóc vỏ rồi băm nhỏ, cà chua rửa sạch, băm nhỏ. Các bước sơ chế ớt trước khi làm tương. Ảnh Internet. Bước 2 Cách xào tương ớt rim làm đúng kiểu Đà Nẵng Đặt chảo lên bếp, cho 2 – 3 thìa dầu ăn vào đun nóng, cho tiếp hành tỏi vào phi thơm, sau đó đổ cà chua vào đảo đều. Cho ớt băm vào chảo rồi nêm thêm chút đường, muối, hạt nêm rồi đảo tục xào cho đến khi tương ớt dẻo lại thì tắt bếp và thêm dầu ăn vào. Đảo đều rồi để nguội, sau cùng cho tương ớt vào lọ thủy tinh để bảo quản và dùng dần. Tương ớt Đà Nẵng thường được dùng để ăn kèm với xôi, tré, bánh tráng kẹp, mít trộn,… Tương ớt xào Đà Nẵng có vị cay thanh và chua ngọt nhẹ. Ảnh Internet. 3. Hướng dẫn cách làm tương ớt rim Huế thơm cay Hướng dẫn cách làm tương ớt rim Huế thơm cay Nguyên liệu chế biến Cách làm tương ớt xào Huế có vị cay nồng và mùi thơm nhẹ, là nguyên liệu không thể thiếu trong nhiều món ăn của xứ Huế. Sau đây là những nguyên liệu cần có để thực hiện cách làm tương ớt xào Huế tại nhà 200 gram ớt bột250 gram đường cát trắng250 gram nước mắm ngon150 gram dầu ăn2 củ tỏi lớn Cách làm tương ớt xào Huế Tỏi bạn đem lột vỏ rồi đập dập, cho dầu ăn vào nồi rồi đặt lên bếp, khi dầu sôi bạn cho tỏi vào phi thơm. Khi thấy tỏi chuyển màu vàng, bạn hạ nhỏ lửa rồi cho nước mắm và đường vào. Các bước làm tương ớt xào đậm vị Huế. Ảnh Internet. Dùng đũa khuấy nhẹ cho đường tan hết, khi nước mắm và đường sôi, bạn cho ớt bột vào đảo đều nhé. Bạn đảo đến khi thấy tương ớt sệt lại thì tắt bếp. 4. Cách thưởng thức sa tế miền Trung Cách làm tương ớt xào đúng chuẩn của người miền Trung thật ra cũng dễ thực hiện, đúng không nào! Nhưng, bạn có biết nên kết hợp với món ăn nào để tạo nên hương vị ngon nhất? sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi này với những gợi ý dưới đây. Bún chả cá Bún chả cá là món ăn nổi tiếng tại nhiều tỉnh miền Trung như Đà Nẵng, Huế, Bình Định,…Người ta thường nêm thêm tương ớt xào vào nước dùng của bún chả cá để tăng thêm hương vị đậm đà. Khi ăn món bún này, bên cạnh thường có thêm 1 bát tương ớt xào để chấm kèm với chả cá dai ngon. Đây là cách thưởng thức bún chả cá ngon đúng điệu. Ăn kèm tương ớt xào với bún chả cá để tăng hương vị đậm đà. Ảnh Internet. Gia vị ướp các món nướng Khi nướng thịt hay hải sản, người dân miền Trung thường ướp thêm tương ớt xào để tạo vị đậm đà, cay nồng và màu sắc hấp dẫn cho món nướng. Không chỉ là gia vị để ướp, tương ớt xào còn là nước chấm tuyệt vời của nhiều món ăn như bánh tráng nướng, thịt nướng, bánh tráng kẹp,… Tương ớt xào là lựa chọn hoàn hảo để chấm đồ nướng. Ảnh Internet. Tré trộn sa tế miền trung Tré là đặc sản nổi tiếng của người Bình Định, nguyên liệu chính của tré là tai heo, thịt ba chỉ, thịt bò trộn đều cùng các gia vị, sau đó được gói bằng lá ổi hoặc lá chuối. Khi thưởng thức tré, người dân Bình Định thường trộn đều với tương ớt xào để tré có vị cay nồng, kích thích vị giác người dùng. Ăn kèm món này với bánh tráng nướng giòn nữa thì không còn gì bằng. Tré trộn tương ớt có vị cay nồng kích thích vị giác. Ảnh Internet. Với những hướng dẫn trên đây, hy vọng bạn có thể tự thực hiện cách làm tương ớt xào thơm ngon và cay nồng tại nhà. Tất cả nguyên liệu đều từ thiên nhiên và không dùng chất bảo quản. Tương ớt xào có hương vị đậm đà và chua ngọt nhẹ, thích hợp để ăn kèm với các món bún, ướp thịt, làm nước chấm thịt nướng,…Thay vì mua ở ngoài, khó kiểm tra chất lượng sản phẩm, hãy tự tay chế biến một hũ tương ớt rim thơm ngon, an toàn cho cả gia đình mình sử dụng nhé! Bún bò ăn kèm với sa tế miền trung Bún bò Huế là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là “bún bò” hoặc gọi cụ thể hơn là “bún bò giò heo”. Bún bò ở Huế hay được người dân ăn kèm với tương ớt để tăng vị đậm đà của món ăn. Sa tế miền trung ăn kèm với Mỳ Quảng Lần đầu tiên vào Đà Nẵng, đi ăn mỳ Quảng trên đường Đống Đa, thấy lọ tương ớt xào màu rất đẹp nhưng tôi không dám ăn. Đó là bởi “sự ám ảnh” của những loại tương không rõ nguồn gốc ở các quán ăn vỉa hè tại Hà Nội. Nhưng rồi thấy mọi người ăn ầm ầm, nên cũng “liều” cho một thìa nhỏ nhằm làm cho bát mỳ Quảng hấp dẫn hơn. Không ngờ nó quá ngon làm tôi “nghiền” liền. Tương ớt xào ở đây rất đặc biệt, nó khác hoàn toàn với món sa tế xào ở ngoài Bắc và 100% không phải là thứ tương ớt màu nhợt nhợt thông dụng kia. Nó hấp dẫn người ta từ màu sắc đỏ thắm, cay nồng của ớt, thơm thơm của hạt mè hạt vừng lẫn trong đó. Tương ớt xào không những để ăn cùng với các loại mỳ mà còn có thể cho vào cháo trắng hay trộn riêng với cơm. Bài viết tham khảo tại đây Một số từ khóa tìm kiếm liên quan Cách làm sa tế miền TrungCách làm sa tế ăn bún bòCách làm sa tế tỏi ớtHọc làm sa tế ớt
1. Dẫn nhập Trong chân lý giới hạn chân lý thế gian hay tục đế, saṁvṛti-satya, thế giới quan của Phật giáo gồm có ba cõi trayo dhātavaḥ là - Dục giới kāma-dhātu, - Sắc giới rūpa-dhātu - Và vô sắc giới ārūpya-dhātu; Hay lục đạo ṣaḍakula là - Địa ngục đạo narakagati, - Ngạ quỷ đạo pretagati, - Súc sanh đạo tiryagyonigati, - A-tu-la đạo asura-gati, - Nhân gian đạo manuṣya-gati - Và Thiên đạo deva-gati. Tam giới hay lục đạo luân hồi có vô lượng vô biên thế giới. Mỗi thế giới cũng có vô lượng vô biên chúng sinh sinh sống. Tùy theo nghiệp karman của mình đã gây tạo bằng hành động, lời nói và ý nghĩ thông qua thân kāya-karma, miệng vāk-karma, và ý manas-karma mà chúng sinh nhận lấy một cảnh giới hay một hoàn cảnh sống tương ứng. Nếu nghiệp thiện kuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới thiện, đó là a-tu-la, người và trời; nếu nghiệp bất thiện akuśala thì sẽ tương ứng với cảnh giới bất thiện, đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cảnh giới bất thiện là cảnh giới mà chúng sinh trong đó có hoàn cảnh sống hoàn toàn phải chịu khổ đau, nhưng cảnh giới thiện không có nghĩa là chúng sinh ở trong đó hoàn toàn hưởng thụ hạnh phúc. Theo Phật giáo, chúng sinh sống trong phạm vi ba cõi đều phải chịu khổ đau, mà nỗi khổ đau lớn nhất là phải trôi lăn trong đêm dài tăm tối sinh tử luân hồi. Khổ đau có rất nhiều nguyên do, nhưng gốc rễ chính là tam độc tham lam rāga, giận hờn dveṣa và si mê moha, hay vô minh avidyā. Muốn thoát khỏi khổ đau cần phải nhổ tận gốc rễ tam độc. Mục đích cứu cánh của Phật giáo là ly tham, giải thoát. Để đạt được mục đích cứu cánh ấy, Phật dạy tám vạn bốn ngàn pháp môn, và pháp môn nào cũng phải đi qua Giới, Định và Tuệ. Tựu trung có ba con đường đi đến giác ngộ giải thoát là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền tông chú trọng tự lực. Tịnh độ tông chú trọng tha lực. Mật tông thì phối hợp cả tự lực và tha lực. Trai đàn bạt độ là một hình thức tổng hợp sức mạnh của tự và tha ấy. 2. Ý nghĩa đàn tràng Trai đàn 齋壇 có nghĩa là một đạo tràng thanh tịnh. Bạt là nhổ lên, độ là vượt qua, thoát khỏi. Trai đàn bạt độ là một đạo tràng thanh tịnh được tổ chức để nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi. Về hình thức, trai đàn được bố trí theo một hình thức đơn giản của một trong hai bộ mạn-đà-la maṇḍala, đó là Kim cang giới mạn-đà-la vajradhātu-maṇḍala biểu tượng cho trí tuệ sở chứng của Phật, hay Thai tạng giới mạn-đà-la garbhadhātu-maṇḍala biểu tượng cho phương tiện độ sinh của Ngài. A - Kim cang giới mạn-đà-la có dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candra-maṇḍala. Bên trong hình tròn được sắp xếp như sau - Chính giữa là vị trí đức Đại Tỳ-lô-giá-na, hay Đại Nhật Như-Lai MahāVairocana-Tathāgata. Đó là Pháp thân Phật DharmakāyaBuddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp cả vũ trụ. Trong năm đại pañcadhātu, Ngài biểu tượng cho không đại ākāśadhātu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn vijñāna-skandha. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí dharma-dhātu-svabhāva-jñāna. - Phương đông là A-Súc-Bệ Phật Akṣobhya, hay Bất-Động Như Lai với các biểu tượng Phong đại vāyu-dhātu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn saṃskāra-skandha, động cơ tạo tác của các loại hữu tình; đại viên cảnh trí ādarśa-jñāna, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. - Phương Nam là Bảo Sinh Phật Ratnasambhava với các biểu tượng hỏa đại tejo-dhātu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sinh và thế giới; tưởng uẩn saưjñā-skandha, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; bình đẳng tánh trí samatā-jñāna, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. - Phương tây là A-di-đà Phật Amitabhā thủy đại ab-dhātu, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn vedana-skandha, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; diệu quán sát trí pratyavekśaṇā-jñāna, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. - Phương bắc là Bất Không Thành Tựu Như lai Amoghasiddhi địa đại pṛthivī-dhātu, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn rūpa-skandha, tác thành thế giới hữu tình; thành sở tác trí kṛtyānuṣṭhāna-jñāna, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sinh. Mỗi đức Như lai đều có bốn Bồ tát thân cận. Tất cả là mười sáu Đại bồ tát. Ngoài ra, nội đàn có bốn cúng và ngoại đàn bốn cúng; tất cả tám cúng dường bồ-tát. Cùng với bốn Nhiếp bồ tát nữa. Cơ bản, Kim cang giới mạn-đà-la có tất cả ba mươi bảy tôn vị. B- Thai tạng giới biểu hiện đại bi tâm của Phật, từ đó lưu xuất tất cả các phương tiện độ sinh. Từ Thai tạng giới, vạn pháp được thai nghén và dưỡng dục, cho đến thành tựu các phẩm chất siêu việt của đại trí và đại bi. Do đó, đàn tràng của Thai tạng giới được hình dung là một đóa sen có tám cánh. Đóa sen tám cánh này chính là hình ảnh trái tim bằng thịt của chúng sinh. Đại bi tâm không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là sự rung động của trái tim bằng thịt ấy. Hoa sen, theo ý nghĩa nhân quả đồng thời, nghĩa là khi chúng sinh vừa phát tâm bồ-đề, ngay lúc ấy Phật quả đã được thành tựu. Bởi vì, trong thể tính tuyệt đối, ý niệm về thời gian và không gian không tồn tại. Từ ý nghĩa đó, tám cánh sen gồm bốn Đại Bồ tát, và bốn đức Như lai, biểu hiện nhân cách của nhân và quả; tất cả đều phát xuất từ thể tính của Đại Nhật Như lai vốn là đài sen, ở trung tâm của mạn-đà-la. Bốn đức Như lai, theo thứ tự từ Đông qua Bắc như sau - Phương đông, Bảo Tràng Phật Ratnaketu. Ngài là hình ảnh của bồ đề tâm bodhicitta. Bảo tràng làm tiêu xí cho sự phát bồ đề tâm. Dưới cội bồ đề, Như lai đã dương cao tiêu xí này mà đánh bại binh chúng Ma, thành tựu Vô thượng Chánh giác. - Phương nam, Khai Phu Hoa Vương Như lai Kusumita-rāja, an trụ trong ly cấu tam-muội vimala-samādhi, bằng hạt giống bồ-đề tâm mà vun trồng và phát triển thành vô số hành động của đại bi, như đóa hoa nỡ rộ. - Phương tây, Vô Lương Thọ Như lai Amitayus, biểu hiện Báo thân hay Thọ dụng thân của Phật Sambhoga-kāya, kết quả của vô số công đức tu tập, với hình ảnh hoa sen hàm tiếu. - Phương bắc, Thiên Cổ Lôi Âm Phật Divyadundubhi, biểu hiệu phẩm tính của Niết bàn; được ví dụ như chiếc trống trời, vốn không hình tướng nhưng âm vang rền xa. Đó là pháp âm của Như lai được công bố. Ở bốn phương góc là bốn Đại Bồ tát. Phương đông nam, Phổ Hiền Bồ-tát Samantabhadra. Đông bắc, Quán Tự Tại Bồ-tát Avalokiteśvara. Tây nam, Diệu Cát Tường Đồng tử Mañjuśrì-kumàra. Tây bắc, Từ Thị Bồ-tát Maitreya. Chung quanh trung đài bát diệp viện gồm bốn lớp, mỗi lớp có bốn viện. Mỗi viện biểu thị một phương diện độ sinh của Phật. Cả hai bộ mạn-đà-la cũng có thể tượng trưng như hai bàn tay. Bàn tay mặt là Kim cang giới. Từ ngón út cho tới ngón cái, theo thứ tự Về năm uẩn, ngón út là sắc uẩn, và lần lượt là thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Về năm đại, năm loại trí, và năm vị Như Lai cũng theo thứ tự tương xứng đó. Về các ba-la-mật, tính từ ngón út bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn cho đến ngón cái là thiền định ba-la-mật. Bàn tay trái là Thai tạng giới; cũng tính từ ngón út cho đến ngón cái theo thứ tự, với năm đại, năm uẩn, như bàn tay mặt. Về các ba-la-mật huệ, phương tiện, nguyện, lực và trí. Như vậy, khi hai bàn tay hiệp lại, trọn vẹn cả bi và trí của Phật. Đàn tràng chẩn tế được bố trí dựa trên căn bản vũ trụ luận khái lược, với một ít thay đổi. Đơn giản mà nói, đàn tràng được bố trí như là thâu gọn thế giới vũ trụ thành một thực tế hiện hữu cụ thể trước mắt. Mục đích của sự bố trí này là cốt khai triển năng lực gia trì hổ trợ của Phật adhiṣṭhānādhiṣṭhita. Mật giáo nói Phật thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh thân, miệng và ý. Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định. Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm siddhaṃ. Tổng hợp sức mạnh của “tam mật du-già” sẽ tác động lên tâm thức của chúng sinh khiến tâm thức ấy chuyển hóa mọi tâm lý tham lam, giận hờn, si mê, biết lắng nghe, thấu hiểu, biết buông bỏ mọi oán thù oan trái… để hướng tâm đến vô ngã, vị tha, và ngay đó chúng sinh được giải thoát. 3. Đối tượng của đàn tràng Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, mà chúng ta vẫn thường nói nôm na là ma hay cô hồn. Đó là những người chết chưa được siêu thoát. Những người đó có thể là cha, mẹ, anh, em, bà con của chúng ta. Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực nghi, Đại tạng kinh Đại chính tân tu, tập 21, tr. 483b, liệt kê tất cả mười loại cô hồn, như sau 1. Thủ hộ quốc giới những oan hồn vị quốc vong thân, tức những chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc, nhưng nói chung là tất cả những người tử trận ở cả hai đầu chiến tuyến. 2. Phụ tài khiếm mạng chết vì oan gia trái chủ, nợ nần, trụy thai. 3. Khinh bạc Tam bảo bất hiếu, bội nghịch vô đạo. 4. Giang hà thủy nịch thương khách chết sông, chết biển. 5. Biên địa tà kiến những người sống tại biên ải hẻo lánh. 6. Ly hương khách địa cô khổ phiêu bạt, chết đường chết xá, những người vì hoàn cảnh nào đó phải rời bỏ quê hương đi tìm con đường sống, phải vượt biên và đã bỏ mình oan uổng giữa biển khơi muôn trùng… 7. Phó hỏa đầu nhai tự tử, nhảy sông, nhảy núi, chết đâm, chết cháy, chết do tai nạn giao thông… 8. Ngục tù trí mạng chết trong ngục tù. 9. Nô tì kết sứ nô lệ cùng khổ, chết vì đày đọa lao dịch. 10. Manh lung ám á đui, què, câm, điếc, không người chiếu cố. Các khoa nghi khác còn kể thêm một số cô hồn nữa, như vua chúa, quan văn, quan võ của các triều đại, chết do tai nạn bị cướp ngôi hay nuôi mộng nhất thống giang hà nhưng chưa thành tựu; sinh viên học sinh ngày đêm học tập nuôi mộng công danh nhưng nửa chừng chết yểu; các tu sĩ, đạo sĩ vì một số lý do nào đó hoặc chưa ngộ đạo nên cứ quanh quẩn nơi chùa xưa, miếu cũ một thời họ sinh sống. Những chúng sinh trong đường ngạ quỷ phải chịu cảnh sống vô cùng khổ đau. Một mặt, do vì nghiệp duyên đã gây tạo, dù đã chết nhưng họ vẫn cứ mãi ôm ấp hận thù, quyến luyến đời sống thế gian, tham tiếc tài sản… ; một mặt không người thờ cúng, nhớ tưởng nên họ sống trong cảnh lạc loài, bơ vơ, chẳng người thương nhớ, chẳng chỗ nương nhờ, chẳng người cúng tế… Do đó, chúng sinh trong đường ngạ quỷ đói khát về vật chất lẫn tinh thần. Đức Phật với tấm lòng từ bi mẫn, xót thương tất cả chúng sinh, nên đã phương tiện thuyết ra nhiều pháp môn nhằm cứu bạt nỗi khổ đau của mọi loài, trong đó khoa nghi trai đàn bạt độ là pháp thức đặc biệt để cứu độ chúng sinh đường ngạ quỷ. Khi thực hiện pháp sự này, nhờ uy lực của “tam mật du-già” mà chúng sinh trong đường ngạ quỷ được an ủi vỗ về bằng những lời kinh tiếng kệ được tán thỉnh lên bằng giọng ai rất tha thiết, thấm đậm tình người, nhưng cũng đầy triết lý mầu nhiệm của Phật pháp thâm sâu, đồng thời họ cũng được dự một bữa tiệc chay no nê sau bao tháng năm đói khát khốn cùng. “Pháp lực bất tư nghì, từ bi vô chướng ngại, thất liệp thập phương, phổ thí châu sa giới”. Sức mạnh của pháp Phật không thể nghĩ bàn, với lòng từ bi không chướng ngại, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, buổi pháp thí trong hội vô giá có thể biến bảy hạt cơm tràn đầy cả mười, làm no đủ cho hằng hà sa số chúng sinh. 4. Kết luận Trai đàn chẩn tế kỳ siêu bạt độ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn. Nó là một hình thức bố thí, gồm cả tài thí lẫn pháp thí. Dĩ nhiên, sự bố thí tài vật trong đàn tràng, mặc dù con mắt phàm tục của người sống thấy chẳng có một chút hư hao, nhưng tất cả đều đã được chúng sinh trong đường ngạ quỷ thụ dụng, và họ thụ dụng bằng phương pháp thức thực và cả tư niệm thực nữa. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là pháp thí. Bởi chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh nhận được tài thí, và chỉ có pháp thí mới giúp chúng sinh thoát khỏi cảnh giới khổ đau, siêu sinh về miền tịnh độ. Đối tượng chính của trai đàn bạt độ là chúng sinh trong đường ngạ quỷ, nhưng trong những chúng sinh ấy, biết đâu chừng có cả ông, bà, cha, mẹ, anh, em, bà con, bạn bè… của chúng ta? Dù không phải là họ hàng thân thích, thì trên mảnh đất này, biết bao người đã nằm xuống cho chúng ta sống còn? Và dù những chúng sinh ấy không liên hệ gì đến chúng ta, nhưng họ đang đói rách bơ vơ thế kia lẽ nào mình lại ngoảnh mặt làm ngơ ? Cho nên, pháp hội trai đàn bạt độ là một cách để chu tất món nợ ân tình giữa người còn sống với người đã chết. Bao nhiêu oan trái, hận thù vùi chôn dưới lòng đất, chìm sâu dưới đáy biển muôn trùng hay ẩn nấp đâu đó trong tâm hồn của người chết lẫn người sống, thì hôm nay, trong hội vô giá cam lồ này, nguyện nhờ lời kinh tiếng kệ mà hóa giải oan khiên thành tình thương yêu, sự hiểu biết và lòng cảm thông, tha thứ. Xin nguyện biến oan khiên thành ân nghĩa. Ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân của trời đất, ân của đồng loại. Ân nghĩa ấy đã thắt chặt tình người qua bao nhiêu kiếp! Ý Nghĩa Trai Đàn Chẩn Tế Cô Hồn Trong các lễ cúng thí Cô hồn, Trai đàn Chẩn tế được tổ chức quy mô nhất. Nó bao hàm cả hai khía cạnh văn chương và triết lý, gần như tất cả tinh hoa của tư tưởng và văn học Phật Giáo Đại thừa Mật Tông được gói trọn vào đây. Về hình thức, trai đàn nầy dựa trên nền tảng của triết học Mật giáo. Tức bố trí theo một hình thức đơn giản của mạn đà la mandala. Đó là một vòng tròn, được tượng trưng như một đóa hoa sen nở trọn, và vòng tròn nầy là căn bản vũ trụ luận của Mật Giáo. Thông thường có hai bộ mạn đà la. Kim Cang giới mạn đà la Vajradhàtu-mandala biểu tượng cho trí huệ sở chúng của Phật. Thai tạng giới mạn đà la garbhadhàtu-mandala biểu tượng cho phương tiện độ sanh của Ngài. Mỗi mạn đà la đều dựa trên một số chủ điểm tư tưởng của Đại thừa giáo. Chủ điểm đáng ghi nhớ nhất, đại lược như sau Trước hết, chúng ta nên biết rằng theo quan điểm truyền thống Phật giáo, vũ trụ gồm hai thành phần. Một đằng là nhân cách, tức lấy con người hay các loài hữu tình làm bản vị, mà trên hết, lấy nhân cách của Phật làm biểu hiệu cho bản thể tuyệt đối. Đằng khác nữa, là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng bất khả tư nghị của Phật. Nhân cách có năm yếu tố, gọi là năm uẩn sắc, thọ tưởng, hành, thức. Chúng tập họp lại thành một bản ngã giả tưởng nên được gọi là uẩn. Thế giới của nhân cách được cấu tạo bởi năm yếu tố, gọi là năm đại địa, thủy, hỏa, phong và không. Trên cơ sở giáo nghĩa nầy, trước hết mạn đà la của Kim cang giới được thiết lập để biểu hiện trí huệ sở chứng của Phật. Kim cang là loại chất rắn không bị bất cứ gì hủy hoại được. Do đókim cang được vận dụng như một khái niệm cụ thể hóa yếu tính tồn tại của Phật thân, gọi là kim cang bất hoại thân vajrasauhatanakàya. Thân ấy, cũng như thân của tất cả mọi loài chúng sinh, đều do năm uẩn và năm đại cấu thành. Nhưng tồn tại của Phật thân không khác biệt với hoạt dụng của Phật trí. Do đó, năm đại tương ứng với năm trí. Và nhân cách của Phật, như là chỉnh thể thống nhất của tồn tại và nhận thức, được biểu hiện thành năm đức Như Lai tương ứng, tức Ngũ Trí Như Lai, hay năm vị Thiền Phật sẽ nói rõ ở phần Ngũ Phương Phật. Sau đây sẽ mô tảsơ lược một trai đàn chẩn tế từ trong ra ngoài Từ trong ra. NỘI ĐÀN 1. Bàn Phật Tại chùa có Chánh điện, tại tư gia có Bàn thờ Phật là nơi Tham Lễ Giác Hoàng 2. Bàn kinh Nơi để nghi thức, chuông mõ, pháp khí. NGOẠI ĐÀN 1. Màn Sư tử tòa Sư tử tòa là chỗ ngồi của Phật. Phật là bậc oai đức hơn tất cả chúng sanh. Cũng như sư tử dõng mãnh hơn tất cả các thú. Chớ chẳng phải Phật ngồi trên mình con sư tử. Cho nên dù Phật ngồi bất cứ đâu, dù trên ghế, hòn đá, gốc cây hay mặt đất. . . thì những chỗ đó đều gọi là Sư Tử Tòa. Vậy bức màn Sư Tử Tòa là bức màn có hình con sư tử được vẽ rất oai nghiêm, dõng mãnh treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật. 2. Bảo Tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, khi ngồi vào đây là đại diện chư Phật vì chúng sanh, đặc biệt là cô hồn mà tuyên dương Chánh pháp. Theo khoa nghi, trước khi vị chủ sám vào chỗ ngồi phải cung hành một nghi thức mật pháp rất trang nghiêm. Sau khi cung thỉnh Ngũ Phương Phật xong , vị chủ sám đến đứng trước bàn Giác Hoa. Vị tả kim đài 1 đứng ở vị trí ở bàn kim đài, hai tay nâng thủ lư cung thỉnh Vị Gia Trì Sư đăng bảo tọa để thuyết giới cho cô hồn. Sau khi vị Gia Trì Sư đáp lại và xin chư Phật cho phép đăng bảo tọa. Vị tả kim đài 1 ra lệnh cử chuông trống bát nhã bằng động tác vỗ vũ xích, chuông trống bát nhã cử hành, Vị Gia Trì Sư quay về trái đi lên bảo tòa. Kinh sư vào vị trí bàn kim đài. 3. Màn song khai Trước bảo toạ là bức màn phân làm đôi, được đóng lại hoặc mở ra tùy theo lúc qui định trong khoa nghi. 4. Bàn kim đài Kinh sư ngồi hai bên tả hữu mỗi bên ba hay bốn vị. Thứ tự tính từ trong ra ngoài. Có một vài sự đổi thay nhỏ tùy vùng xử dụng tang và mõ. Huế, kinh sư ngồi ghế để đầu trần. Bình Định, kinh sư ngồi xuống chiếu, đầu đội tỳ lư, xử dụng 2 đẩu giống cái tang nhưng không có cán và mõ. Miền nam, kinh sư ngồi ghế đầu trần, xử dụng 2 đẩu và mõ. 5. Bàn Giác Hoa Giác hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một đức Phật ở cõi Ta bà, hồi đời qúa khứ cách nay không biết bao nhiêu kiếp. Ngài có tuổi thọ bốn trăm ngàn vạn ức a tăng kỳ kiếp. Về đời tượng pháp của đức Phật ấy có một cô gái Bà la môn, nhơn mẹ vừa khuất, đến chiêm lễ tượng Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương tại chùa cầu cho biết hồn mẹ ở chốn nào, ngài liền khiến thần thức của cô gái ấy đến cõi địa ngục. Nơi đây quỷ vương cho biết nhờ phước đức cúng Phật và bố thí của thánh nữ, hồn bà được thoát cảnh điạ ngục mà lên cảnh tiên. Cô gái ấy tức là tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát. 6. Các án Ngũ phương Phật Ngũ phương Phật là một hệ thống phối trí chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hộ pháp hết sức thâm diệu của Phật giáo Mật Tông, Ngũ phương Phật là sự phối hợp giữa Ngũ phương, Ngũ Trí, Ngũ Phật, Ngũ Bộ và Ngũ Hành trong Thai Tạng Mạn đà la và Kim Cang Giới Mạn đà la. Theo sự truyền thừa của Phật giáo Việt Nam từ xưa đến nay trong Trung Khoa Du Già Tập Yếu khắc bản năm Mậu Tý triều Vua Đồng Khánh và bài viết “LỄ THÁNG BẢY cho những oan hồn phiêu bạt” của Thầy Tuệ Sĩ, đàn tràng Chẩn tế tại Việt Nam được cung trần theo Kim Cang Giới Mạn Đà La. Chúng tôi xin trình bày khái quát như sau Kim cang giới mạn đà la là thuyết minh hoạt dụng của trí huệ sai biệt trong lý tính không sai biệt, do đó Ngũ trí Như lai là trọng tâm của mạn đà la nầy. Hình dạng cơ bản là một hình tròn, gọi là nguyệt luân candramandala. Bên trong hình tròn nầy thiết lập các biểu tượng của năm vị Như Lai. Án Trung ương Chính giữa là vị trí Đức Phật Tỳ Lô Giá Na tức Đại Nhật Như Lai Mahà Vairocana – Tathàgata hiển thân sắc màu vàng, đối diện với bàn Giác Hoa. Đó là Pháp thân Phật Dharmakàya Buddha, như mặt trời bủa rộng ánh sáng bình đẳng và bao dung cùng khắp vũ trụ. Trong năm đại, Ngài biểu tượng cho không đại àkàzadhàtu, và bản chất của hư không là bao dung. Trong năm uẩn, Ngài là biểu tượng của thức uẩn. Trong năm loại trí, Ngài biểu tượng cho Pháp giới thể tánh trí. Bốn phương chung quanh Ngài Đại Nhật Như Lai là vị trí của bốn đức Như Lai, theo thứ tự từ Đông qua Nam cho đến Bắc mà quý vị trong khoa Chẩn Tế thường nói cho dễ nhớ Tả Đông, Nam. Hữu Tây; Bắc từ trong đi ra theo chiều kim đồng hồ, tức bên tay trái là phương Đông và Nam, bên tay phải là phương Tây và Bắc như sau Án Phương Đông A Súc Phật Akwobhya hay Bất Động Như Lai, hiển sắc thân màu xanh, trở mặt vào án Trung ương với các biểu tượng Phong đại vàyu-dhàtu, nhờ đó mà vũ trụ có vận động; hành uẩn động cơ tạo tác của các loại hữu tình; Đại viên cảnh trí, như tấm gương tròn bao la và ngời sáng phản chiếu mọi hiện tượng sinh thành và hủy diệt của thế giới. Án Phương Nam Bảo Sanh Phật Ratnasambhava, hiển sắc màu đỏ, trở mặt vào Trung ương với các biểu tượng Hỏa đại tejo-dhàtu, khả năng làm chín muồi để đưa đến chỗ thành tựu các vận động của chúng sanh và thế giới; tưởng uẩn, khả năng truy ức quá khứ và ước vọng tương lai để thúc đẩy sự tiến hành sinh hóa; Bình đẳng tánh trí, khả năng quan sát bình đẳng các pháp không bị ràng buộc ngã và pháp. Án PhươngTây A Di Đà Phật Amitabhà, hiển sắc màu trắng, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Thủy đại, khả năng kết hợp các pháp để tác thành duyên sinh hay duyên khởi; thọ uẩn, khả năng hưởng thụ thành quả của các vận động; Diệu quan sát trí, nhìn thấy rõ chân tướng của vạn hữu, của tác dụng sinh khởi, tồn tại và hủy diệt. Án Phương Bắc Bất Không Thành Tựu Phật Amoghasiddhi, hiển sắc màu đen, trở mặt vào Trung ương, biểu tượng Địa đại, khả năng duy trì sự tồn tại của vũ trụ; sắc uẩn, tác thành thế giới hữu tình; Thành sở tác trí, thể hiện các phương tiện giáo hóa chúng sanh. Phía sau Ngũ phương Phật là 1. Bàn Địa Tạng đồng hướng với Trung ương 2. Bàn hộc thực thấp, để đồ cúng Cô hồn 3. Bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng
Sau hàng nghìn năm du nhập vào nước ta, Phật giáo đã được đông đảo cư dân Việt tiếp nhận, vì Phật giáo không chỉ lý giải các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, mà còn có những hoạt động thực tế giúp giải quyết những mâu thuẫn xã hội. Trong số đó có lễ cúng chẩn tế, nghi thức này tuy chưa diễn tả hết tinh thần và tư tưởng Phật giáo, nhưng là một trong những nỗ lực của Phật giáo theo hệ tư tưởng Bắc truyền, nhằm vận dụng những hoạt động thực tiễn để đưa Phật giáo đến gần hơn với người dân. Phật giáo khi du nhập đến bất kỳ vùng đất nào đều có sự tiếp biến với văn hóa địa phương. Tại Nam bộ, lễ cúng chẩn tế đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa bản địa, đồng thời cũng tạo nhiều ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống cư dân nơi đây. KHÁI NIỆM CÚNG CHẨN TẾ Chẩn tế có nguồn gốc từ chữ Hán, là dùng tiền hoặc thực phẩm, y phục,… để “cứu tế cho dân nghèo đói hoặc gặp tai họa”[1]. Thiền sư Thích Nhất Hạnh có định nghĩa chẩn tế như sau “chẩn” là phân phát; “tế” là cứu giúp, tế độ, đưa người khác ra khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo[2]. Trong tâm thức chung của cộng đồng, khi nói đến cúng chẩn tế, mọi người thường nghĩ đến cúng cho người chết, hay hiểu đơn giản “cúng chẩn tế là dâng các loại phẩm vật cho người đã chết”. Tuy nhiên, lễ cúng chẩn tế không chỉ cho người quá cố mà còn đáp ứng yêu cầu của người sống, là một phần trong lễ cầu an và cầu siêu. Về niên đại lễ chẩn tế du nhập Việt Nam, hiện chưa có một tư liệu nào nói chắc chắn. Trong Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả Nguyễn Lang cho rằng khoa nghi này do ngài Hứa Tông Đạo từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam đầu thế kỷ XIII. Hiện chúng ta còn có một tư liệu do Trúc Lâm Đệ tam tổ Huyền Quang soạn là “Pháp sư đạo tràng công văn cách thức thủy lục chư khoa”. QUY TRÌNH THỰC HIỆN LỄ CÚNG CHẨN TẾ Quy trình này được sử dụng trong lễ cúng kỳ siêu bạt độ, dành cho những vong hồn đang chịu khổ ở địa ngục hoặc chết oan ức. Nghi thức chẩn tế cô hồn ở Việt Nam hiện gồm ba loại Đại khoa, Trung khoa và Tiểu khoa còn gọi là Tiểu Mông Sơn. Chữ “khoa” ở đây có thể hiểu là trình tự, các bước tiến hành nghi lễ. Đại khoa hay còn gọi là Khoa Du Già, được thực hiện ít nhất 6 giờ đồng hồ. Trung khoa là phần lược của Đại khoa, gồm hai phần Đàn thượng và Đàn hạ. Đàn thượng là các nghi thức nhập đàn, ấn chú, chân ngôn; còn Đàn hạ là phần thỉnh Thập loại cô hồn. Tiểu khoa là nghi lễ cúng cô hồn vào mỗi buổi chiều tại các chùa theo Phật giáo Bắc tông. Đây vốn xây dựng theo tinh thần của Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Kinh, sau này được phát triển thêm với tên gọi mới “Mông Sơn Thí Thực Nghi”, nghĩa là ngoài việc chú trọng cúng thí thức ăn, còn có phần quy y và thuyết giảng cho vong linh nghe. Trong các đàn Đại khoa và Trung khoa đều có phần “nhập Tiểu Mông Sơn”, chính là nghi thức Tiểu khoa này. Lễ cúng chẩn tế có hai phần chính là mật pháp và hiển pháp. Trong đó, mật pháp thuộc về các ấn chú và quán tưởng. Hiển pháp gồm các bài kinh chú, hành động cử chỉ… mà mọi người có thể thấy và hiểu được. Sự gia giảm trong các đàn chủ yếu ở phần hiển pháp, riêng tâm pháp tuyệt đối không được lược giảm. Một ban kinh sư thường có 5 – 7 vị gồm Sám chủ hay Đàn chủ, Đàn cả hoặc Thầy cả; Duy na kinh sư đánh chuông; Duyệt chúng kinh sư gõ mõ; Vĩ thuận và Vĩ nghịch hai vị kinh sư đánh đẩu; Bốn Trung phan các vị kinh sư tụng kinh, hòa, tán; Phi chung kinh sư đánh chuông lớn; Phi cổ kinh sư đánh trống lớn. Lễ Thượng phan Sơn Thủy Để triệu thỉnh tất cả hương hồn đã vong thân trên không, trên lộ, dưới nước về tại địa điểm có cây phan. Sau đó, sẽ được đưa vào đàn tràng để tham dự pháp hội, nghe pháp âm của Đức Phật mà tỉnh ngộ để thoát khỏi cảnh khốn cùng. Nghi thức Kiết giới Đàn tràng Cả dưới đất lẫn trên không đều quy định khu vực đàn tràng, kiết giới là biến đổi nơi lập đàn tràng thành chốn trang nghiêm thanh tịnh. Lễ Hạ phan Sơn Thủy Thỉnh chư hương linh dựa vào Thần Phan, theo tiếng niệm Phật tiếp dẫn để an tọa tại đàn tràng. Lễ Hưng Tác Thượng đại Tràng phan Sau khi an vị Phan Sơn Thủy xong, lễ Hưng Tác bắt đầu để cáo với giang sơn, hồn thiêng đất nước, chư Hộ pháp Long thần và Thổ địa Tôn thần tại nơi diễn ra buổi lễ biết rõ thời gian, địa điểm tổ chức trai đàn. Đồng thời, hướng dẫn âm linh cô hồn về dự trai đàn, theo lời triệu thỉnh trong Đại Tràng phan dài 36m, được viết bằng chữ Hán trên giấy ngũ sắc. Lễ Bạch Tổ, Bạch Phật, Khai Kinh Cung thỉnh chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức quang lâm bảo điện để cung hành nghi lễ, Thỉnh Tiêu Diện Đại Sĩ. Lễ Giải Oan Bạt Độ Là nghi thức giải oan đoạn nghiệp. Đây là giây phút người sống và kẻ chết đều mong mỏi. Trước giờ hành lễ, tất cả trai chủ, Phật tử đều tập trung đầy đủ tại chánh điện hoặc nơi làm lễ để cung thỉnh vị Sám chủ và Ban kinh sư quang lâm cử hành lễ. Trong lễ Bạt Độ, đặc biệt nhất là nghi thức phá ngục để cứu hương linh đang chịu khổ trong đó ra. Khi ấy sẽ có một vị tu sĩ hoặc người đời đóng vai chèo đò đưa các thầy sang sông cứu vớt hương linh. Nghi thức này không phổ biến, chỉ khi nào gia chủ có nhu cầu và thường được thực hiện ở miền Trung. Ở miền Nam thay vào đó là nghi thức Phát Tấu, gồm phần Xá Hạc chim Hạc và Xá Mã ngựa, nhờ hai con vật này chở tấu chương về tâu các nơi như thiên đình và thủy cung. Đại lễ Trai đàn Chẩn tế Các vị Gia Trì Sư và kinh sư sẽ cung hành nghi thức Tham lễ Giác Hoàng lễ Phật. Tham lễ xong, vị Gia Trì Sư và chư vị kinh sư đi trước; gia chủ và những người khác đi sau ra ngoài đàn, đến trước án Tiêu Diện, Địa Tạng, Ngũ Phương Phật để cung thỉnh chư Phật chứng minh đàn tràng. Tiếp theo, đến Bàn Giác Hoa tiến hành nghi thức thỉnh vị Gia Trì Sư lên bảo tọa, thay Phật thuyết giới cho âm linh cô hồn. Sau đó, Ngài kiết ấn, niệm chú vào sư tử tòa, bảo tọa, màn song khai và chính tự thân trước khi ngồi kiết già trên bảo tọa. Màn song khai mở ra, nghi thức chẩn tế bắt đầu sái tịnh, cung thỉnh chư Phật và Bồ tát chứng minh, thỉnh chư hương linh và 12 hạng cô hồn cùng đến dự. Tiếp theo là nhập Tiểu Mông Sơn để biến hóa thức ăn phù hợp và dư đủ cho các hạng cô hồn dùng. Sau đó, sẽ rưới nước Cam lộ, vị Tả chức nhận bình nước đã làm phép từ Sám chủ đi từ từ đến phía trước và rưới nước. Tại vị trí đó, nhiều Phật tử chuẩn bị sẵn vật dụng để hứng nước Cam lộ[3]. Tiếp theo là hồi hướng công đức, cầu cho tất cả chúng sanh an lành, sanh về cực lạc. Sau khi hạ đàn, chư Tăng trở về nội đàn, đến bàn Phật làm lễ Tạ Phật hoàn Kinh, lễ đến đây hoàn mãn. Ngoài ra, lễ cúng còn có các phần phóng đăng, phóng sinh… BỐ TRÍ ĐÀN TRÀNG TRONG LỄ CÚNG CHẨN TẾ Được chia thành hai phần nội đàn và ngoại đàn. Nội đàn gồm Bàn Phật chùa có chánh điện, tư gia có bàn thờ Phật là nơi tham lễ Giác Hoàng; bàn kinh nơi để chuông, mõ, pháp khí. Ngoại đàn gồm Màn Sư tử tòa bức màn có hình sư tử dáng vẻ oai nghiêm, treo sau lưng vị Gia Trì Sư, tượng trưng chỗ ngồi của Phật; Bảo tọa chỗ ngồi của Gia Trì Sư, đại diện chư Phật để hoằng dương chánh pháp; Màn song khai bức màn chia đôi trước bảo tọa, đóng lại hoặc mở ra tùy theo quy định của khoa nghi; bàn Kim đài kinh sư ngồi hai bên tả hữu, mỗi bên ba hoặc bốn vị; Bàn Giác Hoa Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, một Đức Phật ở cõi Ta bà; các án Ngũ phương Phật gồm năm bàn thiết trí theo hướng Đông – Tây – Nam – Bắc và Trung ương; bàn Hộc thực vị trí thấp, để bài vị và đồ cúng cô hồn; bàn Tiêu Diện cao hơn bàn Địa Tạng, thiết trí ba tượng Địa Tạng, Tiêu Diện và Hộ Pháp nên còn gọi là bàn Tam Bảo ngoại. Vật phẩm trong đàn cúng chẩn tế chia làm hai phần 1. Cung thỉnh chư Phật, Bồ tát, thần thánh… triệu thỉnh chư hương linh, vong hồn. 2. Vật phẩm cúng thường có 6 loại hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, gọi chung là lục cúng. Thức ăn cúng Phật chỉ gồm đồ chay, thường là cơm và xôi chè. Riêng với thần thánh thì tùy người tổ chức, có thể cúng cả chay và mặn, ngoài ra còn có lá phan và bảo cái. Thực phẩm cúng cho nhóm đối tượng thứ hai rất đa dạng. Ngoài hương, hoa, đăng, trà, quả, thức ăn, còn có một số khác bắt buộc, như gạo, muối, cháo loãng, cốm nổ, xôi chè, tiền cúng, mía, các loại khoai,… tùy vào gia chủ mà có thêm vàng mã. Riêng miền Bắc sẽ có oản. Tùy điều kiện gia chủ, có thể thêm nhiều đồ cúng khác như kẹo bánh, áo quần thật. Vật cúng có thể treo lên “cộ” giá đỡ hình chóp, bằng tre, dán giấy bên ngoài hoặc xếp trên mâm và bàn. Đặc biệt, nghệ thuật diễn xướng trong lễ cúng là đỉnh cao về nghệ thuật diễn xướng của âm nhạc Phật giáo. Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Khê, “… nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru và những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng…. Có hai điệu thức chính được dùng điệu Thiền dùng hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam và điệu Ai. Các điệu thay đổi tùy theo nội dung bài” [4]. Trong một lễ cúng, về phía ban kinh sư, một vị đàn chủ phải đầy đủ oai nghi phẩm hạnh, chất giọng tốt, am tường chữ Hán và nghệ thuật diễn xướng. Các lối diễn xướng được sử dụng trong lễ cúng gồm Bạch, Nói, Thỉnh, Nguyện, Đọc, Tụng, Vịnh, Tán. Để một lễ cúng chẩn tế thành công, phải đầy đủ yếu tố hình thức và tâm thức. Về hình thức, đây là lễ cúng theo nghi thức quỷ của Mật tông Tây Tạng, nên đàn tràng phải đúng pháp thức của khoa nghi Mật giáo. Về tâm thức, ban kinh sư và gia chủ cùng những người tham gia phải có sự chuyên tâm. Đàn tràng càng đông người thuộc mọi giới tham dự, càng vận động được nhiều sức mạnh ủng hộ của tập thể. Trong lễ cúng, nếu gia chủ và những người đến dự đều vui vẻ, hài lòng, toàn tâm toàn ý cầu nguyện, kết hợp với sự tinh chuyên của ban kinh sư sẽ giúp ích cho cả người sống lẫn người chết. Ở miền Trung và miền Nam, lễ cúng chịu ảnh hưởng dòng thiền Lâm Tế. Nhà sư Nguyên Thiều và các đệ tử là những người đầu tiên đưa lễ này vào Đàng Trong. Tại đây, lễ cúng chủ yếu dựa vào bản kinh “Chánh khắc Trung khoa Du Già tập yếu”, rút gọn từ “Du Già diệm khẩu thí thực đàn nghi” của sư Vân Thê Châu Hoằng. Tùy từng vùng, lễ cúng còn chịu ảnh hưởng của thổ âm địa phương. Trang phục và pháp khí trong lễ cúng chẩn tế Nam bộ cho thấy hiện tượng giao lưu văn hóa mạnh mẽ và mang đậm dấu ấn vùng miền. ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ CÚNG CHẨN TẾ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA PHẬT TỬ NGƯỜI VIỆT NAM BỘ Nam bộ với điều kiện tự nhiên và thành phần dân cư đa dạng đã hình thành những đặc điểm văn hóa khác nhau, trong từng giai đoạn lịch sử. Đồng hành với quá trình phát triển đó, lễ cúng chẩn tế cũng đóng góp những giá trị thiết thực vào đời sống nhân dân nói chung và Phật tử nói riêng. Trong đời sống cá nhân Quan niệm coi trọng người đã khuất, các bậc tiền bối,… đã chứng minh cho tấm lòng thương nhớ, tính nhân bản của con người. Đó còn là sự cầu mong cuộc sống bình an, thể hiện yếu tố trọng lý và trọng tình trong văn hóa phương Đông. Mặt khác, tâm lý tiếc thương người thân đã mất đưa đến suy nghĩ người thân có thể đang chịu cảnh thiếu thốn, khổ đau và cần sự giúp đỡ. Với cư dân Nam bộ, đặc biệt ở buổi đầu đất rộng người thưa, nhiều thú dữ và bệnh dịch, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình do vậy rất quan trọng. Sự ra đi vĩnh viễn của bất kỳ thành viên nào cũng khiến gia đình hụt hẫng, trống vắng. Ngoài ra, việc thường xuyên di chuyển chỗ ở khiến mồ mả người thân không có điều kiện trông nom. Vì vậy, việc tổ chức lễ cúng tưởng nhớ người thân đã khuất, cầu mong được cảm thông và tha thứ, mong giải tỏa oan khuất, dằn vặt, cầu nguyện cho họ được thanh thản siêu thoát, cầu xin người đã khuất phù hộ cho người sống bình an vô sự là chuyện nên làm khi điều kiện cho phép. Trong đời sống cộng đồng Ở cư dân nông nghiệp, yếu tố cộng đồng rất quan trọng, “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Lễ cúng chẩn tế để cầu an hay cầu siêu, dù do cá nhân hay tập thể tổ chức, cũng phải đủ ba hoạt động cúng Phật, cúng những vị thần ở địa phương diễn ra lễ cúng thần Thành Hoàng Bổn Cảnh và cúng hương linh, vong linh, tri ân các anh hùng liệt sĩ vị quốc vong thân, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn trong các cuộc chiến tranh và thiên tai bão lũ, cầu mong cho họ được sanh về cảnh giới an lành. Đặc biệt, trong các lễ cúng do cá nhân tổ chức, ngoài tên của người được cúng chính và ông bà tổ tiên gia chủ, những người đến tham gia cũng được khuyến khích gửi tên thân nhân của mình để cầu siêu. Về tâm linh, một gia đình hay tập thể tổ chức lễ cúng thì lợi ích cho cộng đồng lớn hơn, chứ không đơn thuần chỉ cho đối tượng được xướng danh, như người xưa có câu “nhất nhơn tác phước thiên nhơn hưởng, độc thọ khai hoa vạn thọ hương” một người làm việc tốt nhiều người hưởng chung, trong vườn có cây hoa nở hoa thì cả vườn thơm lây. Về thực tế, khi tổ chức một lễ cúng cần huy động rất nhiều người, ngoài những người gửi tên cầu siêu ra, những người không gửi hoặc là Phật tử cũng có thể đến giúp đỡ. Trong khi cử hành lễ cúng, về lý, vị Sám chủ đội mão Tỳ lư, mặc y gấm, là hình ảnh Bồ tát Địa Tạng đại diện cho Phật thuyết pháp và bố thí thức ăn cho vong hồn. Nhưng ở góc độ phi tôn giáo, hình ảnh thầy sám chủ mặc trang phục đẹp, ban kinh sư dùng pháp khí với nhạc lễ xung quanh,… tất cả những yếu tố đó tựa như một hình thức diễn xướng nghệ thuật. Không chỉ đối với Phật tử người Việt, lễ cúng chẩn tế còn là cơ hội giao lưu giữa các cộng đồng cư dân Chăm, Khmer, Hoa, Việt… trên vùng đất Nam bộ. Về tôn giáo, lễ cúng chẩn tế thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo. Một việc làm vì nhiều người, không chỉ riêng cho cá nhân nào. Một lễ cúng không chỉ phục vụ nhu cầu thiết thực của gia chủ, mà còn hướng lợi ích an lạc cho nhiều đối tượng khác. Có thể nói, được truyền vào Nam bộ từ thuở sơ khai, lễ cúng chẩn tế đã tồn tại và tiếp sức người dân và những Phật tử nơi đây. Trong đời sống, với hoàn cảnh khó khăn ở vùng đất mới, việc tổ chức cầu an, cầu siêu giúp người sống vơi bớt phần nào khổ đau, mất mát. Những hiểm họa bất an nơi vùng đất mới hoang vu cũng làm cho người dân canh cánh nỗi lo, nỗi sợ hãi, việc tổ chức lễ cúng chẩn tế ngoài mong muốn giúp người chết giải thoát, còn là khát vọng cho người sống được yên ổn, tránh bệnh tật và làm ăn thuận lợi. Lễ cũng là cơ hội để mọi người có dịp gần gũi, tìm hiểu và thông cảm nhau hơn trong cuộc sống. Ngoài ra, những tiết tấu diễn xướng trong lễ cúng cũng góp phần làm cho cuộc sống người dân bớt đi sự buồn tẻ nơi đất lạ. Tồn tại và phát triển ở Nam bộ, lễ cúng chẩn tế tiếp thu những yếu tố văn hóa địa phương, đồng thời chịu tác động từ các yếu tố khác như hoạt động kinh tế, bối cảnh chính trị – xã hội, điều kiện tự nhiên,… Lễ cúng chẩn tế cũng phần nào phản ánh mối quan hệ, giao lưu, tiếp biến văn hóa của các cộng đồng dân tộc cùng sống cộng cư hoặc cận cư ở Nam bộ. Chú thích * Đào Ngọc Lam Phương – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ĐHQG TP HCM. [1] Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, [2] Thích Nhất Hạnh 2007, Đại trai đàn bình đẳng tế xuân Đinh Hợi 2007 tại Việt Nam, [3] Quan niệm cho rằng nước Cam lộ giúp người uống hoặc sử dụng được khỏe mạnh. [4] Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001, Tài liệu tham khảo 1. Dương Chí Cang 2000, Nghiên cứu chế độ lễ nghi Trung Quốc, Nxb ĐHSP Hoa Đông. 2. Trần Văn Khê 2001, Phong cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, đăng trên Nguyệt san Giác ngộ số 59, 2/2001. 3. Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 4. Trần Hồng Liên 2007, Quá trình hình thành và phát triển nhạc lễ Phật giáo Nam bộ, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học “Sư Nguyệt Chiếu với sự nghiệp nhạc lễ cổ truyền Nam bộ”, Nxb Văn hóa Thông tin.
nghi thức chẩn tế miền trung